Cấy chỉ (Đông y còn gọi là luồn chỉ, chôn chỉ, vùi chỉ, xuyên chỉ, thắt buộc chỉ, nhu châm) là phương pháp châm cứu mới, kết hợp giữa y học cổ truyền và y học hiện đại, dùng chỉ phẫu thuật cấy vào trong các huyệt vị châm cứu tạo nên sự kích thích liên tục và lâu dài nhằm nâng cao sức khỏe, điều trị, dự phòng và phục hồi chức năng.
1. Cấy chỉ là gì?
Theo TS.BS Trương Thị Ngọc Lan – Phó viện trưởng Viện Y dược học dân tộc TPHCM, phương pháp cấy chỉ trong Đông y là phương pháp không dùng thuốc, đưa chỉ tự tiêu vào huyệt châm cứu của hệ kinh lạc bằng kim chuyên dụng.
Kỹ thuật này được thực hiện bằng cách đưa một đoạn chỉ vào nòng kim, sau đó châm vào các huyệt giống như châm cứu. Khi rút kim ra, các đoạn chỉ này sẽ được lưu giữ tại vị trí huyệt. Đoạn chỉ trong cơ thể như một vật lạ kích thích cơ thể liên tục trong thời gian mà chỉ tồn tại.
Cấy chỉ thường sử dụng chỉ tự tiêu (chỉ catgut), loại chỉ này sẽ tự tiêu trong 15 đến 20 ngày, tương đương 1 lần cấy chỉ có tác dụng từ 15 đến 20 ngày châm cứu. Một liệu trình điều trị trung bình là 5 lần cấy ghép, mỗi lần cách nhau 15 – 20 ngày.
2. Phương pháp cấy chỉ có cơ sở khoa học không?
Phương pháp cấy chỉ chỉ được coi là một bước tiến, một sự chuyển mình mạnh mẽ trong châm cứu, tạo ra một cuộc cách mạng nhằm thay đổi quan niệm và cách thức tác động huyệt vị từ trước tới nay. Phương pháp này cũng có cơ sở khoa học như châm cứu.
Châm cứu truyền thống là dùng kim châm hoặc dùng ngải cứu kích thích vào huyệt vị trong một khoảng thời gian nhất định. Một số phương pháp tân châm khác cũng thường được áp dụng như tiêm thuốc vào huyệt, kích thích điện, kích thích bằng từ, bằng laser...
Tuy nhiên, với cấy chỉ thì lại khác, mặc dù cũng sử dụng nền tảng giống như châm cứu nhưng việc sử dụng chỉ khâu cấy ghép vào huyệt vị sẽ có tác dụng tồn lưu lâu dài trên huyệt trong khoảng thời gian dài ít nhất là 15 – 20 ngày, do đó có thể nâng cao được hiệu quả và rút ngắn được thời gian điều trị.
Cấy chỉ là sự kết hợp giữa y học cổ truyền và y học hiện đại (Nguồn: Internet)
Ngoài ra, tính khoa học của phương pháp này còn ở việc kế thừa và phát triển của các nghiên cứu khoa học về bản chất của huyệt đạo và hệ kinh lạc cũng như các cách tác động vào huyệt vị.
Theo y học hiện đại, dưới sự tác động vào huyệt vị của chỉ khâu phẫu thuật tự tiêu đã kích thích cơ thể thay đổi đáp ứng miễn dịch, tăng sinh các chất nội sinh có tác dụng giảm đau chống viêm như: beta endorphin, adenosin…; kích thích cân bằng nội tiết, điều hòa thần kinh thực vật, cân bằng trương lực cơ, cân bằng huyết áp, điều chỉnh cơ chế chuyển hóa, an thần…
Với công nghệ vi cấy ghép, phương pháp cấy chỉ vào huyệt vị đã phát triển được tính đại chúng, thể hiện được những ưu điểm và khắc phục nhược điểm như: gây đau, chảy máu của các phương pháp khác, tạo thuận lợi cho việc phát triển châm cứu trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người dân.
3. Phương pháp cấy chỉ vào huyệt có thể chữa được bệnh gì?
Cấy chỉ thực chất chỉ là một hình thức tác động vào huyệt vị như các phương pháp tác động khác. Điểm khác biệt là do sự tồn lưu của chỉ khâu phẫu thuật trong khoảng thời gian nhất định có tác dụng chữa bệnh. Ngày nay, phương pháp cấy chỉ Đông y được chỉ định cho những chứng bệnh sau:
3.1 Bệnh nội khoa
Phương pháp cấy chỉ có thể áp dụng cho các trường hợp: thoái hóa cột sống, đau thần kinh tọa, đau vai gáy, nhức đầu, thiểu năng tuần hoàn não, thoát vị đĩa đệm, viêm đại tràng mạn tính…
3.2 Bệnh nam khoa
Đối với bệnh nam khoa, cấy chỉ thường được chỉ định điều trị chứng bất lực, xuất tinh sớm, di tinh, viêm tuyến tiền liệt…
3.3 Bệnh phụ khoa
Phụ nữ có thể áp dụng phương pháp cấy chỉ để chữa nhiều bệnh lý phụ khoa (Nguồn: Internet)
Phụ nữ có thể áp dụng phương pháp cấy chỉ để chữa kinh nguyệt không đều, tử cung xuất huyết chức năng, thống kinh, bế kinh, viêm tuyến vú, chứng tăng sản tuyến vú, viêm phần phụ…
3.4 Bệnh da liễu
Những trường hợp bị mụn nhọt, nổi mề đay, viêm da thần kinh, mụn trứng cá, ngứa ngáy bề mặt da… cũng có thể thực hiện phương pháp cấy chỉ Đông y.
3.5 Bệnh ngũ quan
Cấy chỉ được chỉ định trong các bệnh lý như: chắp lẹo, cận thị, đục thủy tinh thể, sụp mi mắt, viêm mũi xoang dị ứng, viêm họng cấp mạn tính, viêm thanh quản, viêm amidan, ù tai…
Riêng với bệnh ung thư thì cấy chỉ được xem là hỗ trợ điều trị, khắc phục tình trạng suy nhược, đau đớn, thiếu máu, di chứng do xạ trị, mất ngủ… sau khi điều trị hóa chất và phóng xạ.
Lưu ý: Phương pháp cấy chỉ không được áp dụng cho các bệnh ngoại khoa cấp cứu và cũng chống chỉ định trong các trường hợp bệnh nhân mắc các bệnh lý nguy hiểm như: cao huyết áp, nhồi máu cơ tim... đặc biệt là những trường hợp bệnh nhân đang sốt cao hoặc các vị trí huyệt có vết thương hở.
4. Một số điều cần biết khi thực hiện cấy chỉ
Trong y khoa, biến chứng và tai nạn điều trị là điều không mong muốn ở cả thầy thuốc lẫn bệnh nhân. Biến chứng không mong muốn có thể gặp khi thực hiện phương pháp cấy chỉ là nhiễm khuẩn.
Nguyên nhân là do thực hiện không tốt công tác vô khuẩn như: thấy thuốc không sửa tay sạch, không mang găng tay bảo vệ, cơ thể bệnh nhân không sạch sẽ, sau cấy chỉ bệnh nhân nhanh chóng tiếp xúc với môi trường ô nhiễm... Vì thế, để tránh biến chứng này, người thực hiện cấy chỉ cần tuân thủ việc đảm bảo vô khuẩn khi tiến hành thủ thuật cấy chỉ cho bệnh nhân.
Ngoài ra, người bệnh chỉ nên thực hiện cấy chỉ tại các cơ sở có uy tín, có quy trình đảm bảo vô khuẩn tốt, thực hiện nguyên tắc một chiều (dụng cụ cấy chỉ dùng riêng cho từng bệnh nhân). Bên cạnh đó, để mang lại hiệu quả cao trong điều trị bằng phương pháp cấy chỉ, người bệnh cần lưu ý:
4.1 Trước khi cấy chỉ
- Không uống rượu bia, không dùng các chất kích thích.
- Không để bụng quá no hoặc quá đói.
- Tắm rửa sạch sẽ.
4.2 Sau khi cấy chỉ
- Nghỉ ngơi tại giường khoảng 10 -15 phút trước khi về.
- Hai ngày đầu sau khi cấy chỉ không làm việc nặng hoặc làm việc quá nhiều.
- Không uống rượu, bia, tập thể dục mạnh.
- Không nên ăn các loại thức ăn tanh như tôm, cua, cá, mực và đồ ăn nếp (xôi nếp, bánh chưng…) trong 3 ngày đầu.
- Không để chỗ cấy chỉ tiếp xúc với nước ít nhất 6 đến 8 giờ sau khi cấy chỉ. Sau 2 ngày mọi sinh hoạt đều có thể diễn ra bình thường.