Kinh tế thế giới đang trong giai đoạn phân mảnh như thế nào?

VOH - Thời gian gần đây, những sự kiện liên tục như chiến tranh, dịch bệnh và thiên tai, khiến kinh tế toàn cầu ngày càng trở nên thiếu ổn định và có xu hướng tách rời.

Cuộc chiến ở Ukraine gây ra 1 loạt tác động, ví dụ khủng hoảng lương thực, khủng hoảng năng lượng và khủng hoảng tài chính. Đại dịch Covid-19 và biến đổi khí hậu, mang đến những mất mát không thể đong đếm, nhắc nhở chúng ta về cuộc sống này mong manh thế nào trước sức mạnh của thiên nhiên. Chuyển biến trong thế giới công nghệ, ví dụ phát triển trí tuệ nhân tạo (AI), hứa hẹn nhiều thay đổi tích cực, nhưng đi kèm cũng không ít rủi ro.

Giai đoạn hiện nay, hợp tác giữa các quốc gia rất quan trọng, để giữ gìn sự ổn định chung, cũng như đối phó tốt hơn với thảm họa toàn cầu. Tuy nhiên, thế giới lại chứng kiến tình trạng phân mảnh. Những rào cản về thương mại và đầu tư liên tục được đặt ra. Tiêu cực hơn, các nước hình thành những khối kinh tế đối đầu nhau. Điều này có thể xóa nhòa lợi ích mà quá trình hội nhập toàn cầu mang lại trong 30 năm qua.

Kinh tế thế giới đang ngày càng phân mảnh và chia tách - Ảnh: BBC

Kinh tế thế giới đang ngày càng phân mảnh và chia tách - Ảnh: BBC

1/ Xu hướng phân mảnh của kinh tế thế giới

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự phân mảnh. Căng thẳng địa chính trị ngày càng sâu sắc, cộng với cân nhắc về an ninh quốc gia, khiến các nhà hoạch định chính sách cảnh giác khi chia sẻ công nghệ hoặc tích hợp chuỗi cung ứng. Đạo luật hạn chế đầu tư sang Trung Quốc mà Tổng thống Mỹ Joe Biden ký đầu tháng 8/2023 là ví dụ.

Hội nhập quốc tế toàn cầu diễn ra mạnh mẽ trong 3 thập kỷ qua, giúp hàng tỷ người trở nên giàu có, GDP các quốc gia và năng xuất lao động cao hơn. Tuy nhiên cũng dẫn đến mất việc làm ở nhiều lĩnh vực, nới rộng khoảng cách giàu nghèo và gia tăng tình trạng bất bình đẳng. Đây là mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa bảo hộ, gia tăng áp lực buộc nhiều công ty phải chuyển dây chuyền sản xuất về quê hương.

Mặc dù sự phân mảnh khiến nỗ lực đối phó thách thức chung ngày càng khó khăn, nhưng xu hướng này vẫn tiếp diễn mạnh mẽ. Một số lý do được đưa ra, như để đảm bảo khả năng phục hồi chuỗi cung ứng, nhưng phần lớn được thúc đẩy bởi lợi ích cá nhân và chủ nghĩa bảo hộ. Điều này khiến kinh tế thế giới ngày càng bấp bênh.

Cái giá của sự phân mảnh, là khi thương mại giảm, rào cản dựng lên nhiều, GDP sẽ tụt lại. Theo dự báo mới nhất về tăng trưởng toàn cầu của IMF, năm 2023 GDP thế giới chỉ tăng trên dưới 3%. Điều này gây khó cho việc xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm ở các nước đang phát triển. Nó cũng thúc đẩy hình thành những khối kinh tế cạnh tranh, thậm chí đối nghịch nhau.

Các chính phủ đều thừa nhận, sự phân tách và chủ nghĩa bảo hộ mang đến hậu quả tiêu cực. Những cuộc gặp cấp cao liên tục Mỹ - Trung, cũng nhằm mục đích giảm sự phân tách. Bộ trưởng Thương mại Mỹ Gina Raimondo giữa tháng 8/2023 tuyên bố, chuyến thăm của bà đến Trung Quốc, nhằm trao đổi thẳng thắng các vấn đề như vi phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc đánh cắp công nghệ của đất nước tỷ dân. Đây là nền tảng để 2 bên hợp tác và cùng đối phó thách thức chung.

Nhiều ý kiến bi quan cho rằng, nếu 1 cuộc chiến nữa như ở Ukraine nổ ra, kinh tế thế giới có thể không chịu đựng nổi, do mất an ninh lương thực, gián đoạn thị trường năng lượng và đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hóa. Tương tự là 1 đợt dịch bệnh khác. Ngoài ra, biến đổi khí hậu cũng là vấn đề thế giới không thể không bắt tay đối phó. Bất chấp thực tế trên, các chính phủ vẫn chưa sẵn sàng cùng nhau hành động nhiều hơn.

Theo một số chuyên gia, thế giới dễ bị tổn thương, nghĩa là mỗi quốc gia cần kiên cường hơn. Nhưng nếu đứng 1 mình, kiên cường thế nào cũng không đủ. Do vậy, phải có cách thúc đẩy hợp tác. Cộng đồng quốc tế, thông qua những tổ chức như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hay Ngân hàng Thế giới (World Bank), nên làm việc theo hệ thống và mang tính thực tế hơn, tiến tới mục tiêu cả chung lẫn riêng. Ví dụ IMF đang giúp đỡ Sri Lanka và Pakistan đối phó khủng hoảng kinh tế, nhưng cũng hối thúc các nước này chuyển đổi sang năng lượng xanh và giảm xả thải khí CO2.

Với các nhà hoạch định chính sách, cần tập trung vào những vấn đề không chỉ mang lại sự giàu có, nâng cao GDP, mà cả lợi ích với người nghèo ở tầng lớp bình dân. Các quốc gia nên nuôi dưỡng mối quan hệ tin cậy, để nhanh chóng hợp tác khi cú sốc tiếp theo xảy đến. Điều này đóng vai trò quan trọng, trong hỗ trợ tăng trưởng và giảm nguy cơ kinh tế bất ổn xuyên biên giới.

2/ Thế giới ngày càng mong manh

Hai cuộc Chiến tranh thế giới đã chứng minh rằng, hợp tác quốc tế là rất quan trọng để duy trì hòa bình. Ngay cả khi Chiến tranh thế giới thứ 2 vẫn diễn ra, các nước đồng minh đã xúc tiến thành lập 1 loạt cơ quan sau này là Liên Hợp Quốc, IMF, Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Mỗi tổ chức được giao nhiệm vụ riêng biệt, giải quyết các vấn đề đòi hỏi phải hợp tác tập thể.

Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, sự đối đầu giữa 2 phe khiến thế giới phân tách mạnh mẽ. Tuy nhiên nếu nhìn hẹp hơn, cấu trúc tài chính và an ninh mà phe đồng minh xây dựng, đã giúp kinh tế phương Tây hội nhập với nhau tương đối cao. Tương tự, các nước thuộc phe Liên Xô cũng có sự hội nhập kinh tế nhất định. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, quá trình hội nhập kinh tế, cùng với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra mạnh mẽ. Giai đoạn này chứng kiến nhiều đột phá, nhất là giảm tỷ lệ nghèo đói ở châu Á, châu Mỹ Latinh và Thái Bình Dương.

Sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, quá trình toàn cầu hóa chậm lại và không đồng đều. Các nước bắt đầu áp đặt rào cản thương mại. Khi Covid-19 bùng phát năm 2019, các nước có thu nhập thấp chứng kiến sụt giảm tăng trưởng hơn 1 nửa, từ mức bình quân 3,1% trong 15 năm trước đó, xuống còn 1,4% từ 2020 đến 2022. Tuy nhiên mức tăng này vẫn cao hơn các nước giàu. Trong 15 năm trước đại dịch, các nước giàu bình quân tăng trưởng 1,2% mỗi năm, sau năm 2020 tăng trưởng còn khoảng 1%.

Giảm tăng trưởng đã nới rộng khoảng cách giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, và thúc đẩy bất ổn chính trị. Hàng loạt cuộc đảo chính và nội chiến ở châu Phi là minh chứng rõ nhất. Biến đổi khí hậu cũng đang khiến vấn đề nghiêm trọng hơn. Nhiều nước đang kiệt quệ, ảnh hưởng 1 phần vì hạn hán và mưa lũ, ví dụ Myanmar, Bangladesh, Pakistan hay Sri Lanka.

Trong thế giới ngày càng trở nên mong manh, các quốc gia hoặc khối quốc gia, có thể bị cám dỗ bởi lợi ích hạn hẹp. Nhiều nước thiếu công nghệ, tài chính và năng lực quản trị để đối phó những cú sốc, có xu hướng tiếp nhận những nguồn vốn dễ dãi, rồi rơi vào bẫy nợ. Họ lọt tầm ảnh hưởng của quốc gia khác, bị lôi kéo vào trò chơi quyền lực giữa các cường quốc, thúc đẩy thế giới phân mảnh hơn.

Một số phân tích chỉ ra, sự phân mảnh về thương mại, tức gia tăng các hạn chế buôn bán, có thể làm GDP toàn cầu giảm tới 7%, tương đương Pháp và Đức cộng lại, gấp 3 lần châu Phi cận Sahara. Nhiều chuyên gia có lý do để lo lắng khi vào năm 2019, các quốc gia áp đặt trên dưới 1.000 lệnh hạn chế thương mại, đến 2022 con số tăng lên gần 3.000. Ví dụ các nước nhỏ cũng bị cuốn vào đối đầu kinh tế Mỹ - Trung. Hà Lan và Nhật Bản đã tiếp bước Mỹ hạn chế xuất khẩu công nghệ chất bán dẫn sang Trung Quốc.

Sự phân mảnh đã và đang tạo ra những gián đoạn trên thị trường hàng hóa và gây mất an ninh lương thực lẫn năng lượng. Ví dụ phương Tây cấm vận Nga, cộng với Ukraine không thể xuất khẩu nông sản 1 cách bình thường, đẩy giá lúa mì tăng 37% vào mùa xuân năm 2022, dẫn đến lạm phát nghiêm trọng trên toàn cầu. Chịu tác động mạnh nhất là Bắc Phi, Trung Đông và Nam Á.

Sự phân mảnh về dòng vốn, khi nhà đầu tư chuyển hướng sang những quốc gia có cùng quan điểm chính trị, có thể giáng 1 đòn khác vào kinh tế toàn cầu. Những tổn thất cụ thể về tình trạng phân mảnh này, khó ước tính chính xác, nhưng tựu chung dẫn đến tăng trưởng yếu hơn, năng suất thấp hơn, người dân nghèo hơn, dịch vụ y tế - giáo dục đi xuống và cơ sở hạ tầng không được nâng cấp.

3/ Vai trò các tổ chức quốc tế

Trong 1 thế giới với những cú sốc thường xuyên xảy ra, các quốc gia thường tìm cách giảm bớt tác động tiêu cực đến kinh tế xã hội. Điều này đòi hỏi phải xây dựng những vùng đệm. Phổ biến nhất là kho dự trữ quốc gia, tức ngoại tệ hoặc vàng của ngân hàng trung ương. Những năm qua, lượng dự trữ đã tăng nhanh hơn. Dẫu vậy, chỉ 10 quốc gia nắm 2/3 giá trị dự trữ toàn cầu. Các nước đang phát triển, lượng ngoại tệ vẫn hết sức khiêm tốn, nhất là ở châu Phi, châu Mỹ Latinh, Trung Đông và các quần đảo Thái Bình Dương. Sự phân bổ không đồng đều, nghĩa là nhiều quốc gia vẫn dễ bị tổn thương.

Trước các thảm họa như dịch bệnh, không quốc gia nào bình yên nếu người láng giềng gặp vấn đề. Do đó, hợp sức là điều rất cần thiết. Để hỗ trợ những nước nghèo có lượng dự trữ thấp, vai trò các tổ chức toàn cầu vô cùng quan trọng. Thời gian qua, IMF cho thấy cách ứng phó tương đối chuyên nghiệp. Từ khi Covid-19 bùng phát, IMF đã cho vay hoặc tài trợ khoảng 300 tỷ USD tới 96 quốc gia. Số tiền này chủ yếu để nhập khẩu thuốc men, thiết bị y tế, thực phẩm và xăng dầu. Từ khi thành lập IMF, đây là lần đầu tiên trong thời gian ngắn 1 lượng tiền lớn như vậy được tung ra.

Thời gian qua, mặc dù các nước lớn đều tăng dự trữ, nhưng đóng góp cho IMF để củng cố nguồn lực hỗ trợ lẫn nhau lại tương đối ít. Tổng số tiền IMF quản lý không thay đổi nhiều. Đây cũng là rủi ro, nếu thế giới gặp tai ương tiếp theo, như dịch bệnh hay thiên tai.

IMF từ lâu đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế toàn cầu. Đây là tổ chức duy nhất được 190 thành viên trao quyền, thực hiện kiểm tra sức khỏe thường xuyên và kỹ lưỡng đối với nền kinh tế của họ. IMF giám sát sự ổn định tài chính và kinh tế vĩ mô, tư vấn chính sách, và cho vay, giúp bảo vệ các nước trước khủng hoảng. Trong 1 thế giới nhiều cú sốc và chia rẽ, vai trò của IMF ngày càng được củng cố.

Nhưng IMF chỉ là 1 tác nhân trong nền kinh tế toàn cầu, và 1 trong nhiều tổ chức tài chính quốc tế quan trọng. Để theo kịp thay đổi trong 1 thế giới đang phân mảnh, quy mô và chính sách của IMF cần được làm mới. Ví dụ tăng hạn ngạch đóng góp của các thành viên. Hạn ngạch là khoản đóng góp của mỗi thành viên, dựa trên sức mạnh kinh tế. Hạn ngạch hiện nay nên tăng thêm 1 cách hợp lý, để đảm bảo IMF đủ sức giúp các nước thành viên đối phó khủng hoảng.

Trong quá trình này, các thành viên giàu có của IMF cần đi đầu. Hiện nay chỉ riêng quỹ Tín thác dùng xóa đói giảm nghèo, từ khi Covid-19 bùng phát, IMF đã cung cấp 30 tỷ USD không lãi suất cho 56 quốc gia có thu nhập thấp. Khoản tiền trên rất quan trọng đối với những nước tiếp nhận. Hiện nay, biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, những nước nghèo thường là đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nhất, do đó quỹ này sẽ ngày càng cần thiết.

IMF cũng nên đa dạng hóa sự hiện diện trong tổ chức. Ví dụ hội đồng quản trị nên có thêm thành viên từ châu Phi hoặc Mỹ Latinh. Điều này giúp tổ chức ra quyết định dựa trên đánh giá kỹ và hiểu biết sâu sắc về mỗi địa phương.

Cuối cùng, IMF không thể hoạt động hiệu quả trong thế giới bị chia cắt ngày nay, nếu chưa tăng cường quan hệ với những tổ chức quốc tế khác, ví dụ Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Phi (AFDB), Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Tất cả phải nhanh chóng hợp sức, khi có thảm họa hay khủng hoảng phát sinh.

Trong 80 năm từ khi Liên Hợp Quốc ra đời, thế giới đã ứng phó những thách thức lớn thông qua các quy tắc, trong đó có cả điều khoản bắt buộc. Giờ đây, thế giới bước vào kỷ nguyên mới, với sự phân mảnh và chia rẽ ngày càng lớn, do vậy các thể chế quốc tế ngày càng đóng vai trò quan trọng, trong việc liên kết các nước để cùng xử lý vấn đề chung.

Bình luận