Giá cà phê thế giới
Khảo sát giá cà phê thế giới sáng ngày 14/10, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London điều chỉnh giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 11 giảm 11 USD, xuống 2.133 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 1/2022 giảm 8 USD, còn 2.143 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 3/2022 giảm 1 USD, còn 2.096 USD/tấn, các mức giảm nhẹ. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình. Cấu trúc giá nghịch đảo thu hẹp khoảng cách.
Song song đó, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York đảo chiều sụt giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 12 giảm 4,50 cent, xuống 208,65 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 3/2022 giảm 4,45 cent, còn 211,60 cent/lb, các mức giảm khá mạnh. Khối lượng giao dịch khá cao trên mức trung bình.
Đồng Reais tăng 0,50%, tỷ giá lên ở mức 1 USD = 5,5090 Reais sau phiên đấu giá hoán đổi bất thường trị giá 1 tỷ USD của NHTW Brasil (BC) thực hiện làm giảm đà tăng của đồng bạc xanh.
Thị trường cà phê thế giới đồng loạt giảm. Theo các chuyên gia nhận định, việc biến động của các sàn giao dịch chủ yếu do giới đầu cơ mà không còn theo yếu tố thị trường.
Giá cà phê kỳ hạn tại New York đảo chiều giảm mạnh ngay khi FOMC công bố biên bản phiên họp tháng 9 với nhận định đã đến lúc có thể giảm mua tài sản trị giá 120 tỷ USD/tháng kể từ tháng 11 và sẽ kết thúc quá trình mua vào cuối năm 2022. Đồng thời, FOMC sẽ xem xét khả năng nâng lãi suất cơ bản của USD trong phiên họp sắp tới nhằm ngăn chặn đà lạm phát vuợt mục tiêu.
Tuy không ngoài suy đoán của thị trường nhưng việc chính thức công bố biên bản phiên họp cũng khiến chứng khoán quay đầu giảm và kéo giá cả nhiều loại hàng hóa giảm theo, kể cả đồng bạc xanh. Có vẻ như các đồng tiền kỹ thuật số được hưởng lợi nhiều nhất.
Cho dù cũng đảo chiều sụt giảm theo New York nhưng giá cà phê Robusta tại London chỉ điều chỉnh nhẹ do đồng Euro mạnh lên và các giới đầu cơ tiếp tục thanh lý trước đáo hạn hợp đồng quyền chọn tháng 11 vào cuối tuần này, trong khi nguồn cung cà phê Robusta từ các nước sản xuất chính còn bị thắt chặt và xu hướng giá tăng vẫn được duy trì.
Tình trạng không có hàng để giao ở một nhà sản xuất cà phê lớn như Colombia có thể làm trầm trọng thêm các đợt tăng giá đột biến trên thị trường thế giới trong thời gian tới.
Dù vậy, tình trạng này được đánh giá là chỉ kéo dài tạm thời và cà phê sẽ vẫn là một mặt hàng có “sức nặng” khi trở lại thị trường.
Các nông dân trồng cà phê tại Colombia cho biết, họ sẽ đảm bảo có đủ nguồn cung để giao hàng vào cuối năm nay hoặc năm sau, song người mua không được thuyết phục.
Theo một nhà giao dịch cấp cao, nhiều người đang chọn cách đối mặt với các khoản lỗ trước mắt, thay vì chờ đợi thêm và có nguy cơ thua lỗ lớn hơn nếu nông dân không giao hàng vào năm tới và giá tăng cao hơn nữa.
Ông cho biết, một số nhà thương mại toàn cầu đang xem xét thiệt hại trong khoảng 8-10 triệu USD cho mỗi đơn hàng cà phê chưa giao.
Trong khi đó, Liên đoàn trồng cà phê FNC của Colombia - chiếm 20% trong số 12,5 triệu bao cà phê xuất khẩu hàng năm - đang phải đối mặt với mức lỗ cao hơn, Reuters đưa tin.
Giá trong nước giảm nhẹ 200 đồng/kg
Giá cà phê trong nước sáng nay giảm nhẹ 200 đồng/kg, giá cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 40.600 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 39.600 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê ở Lâm Đồng giảm nhẹ 200 đồng/kg, tại Bảo Lộc, Lâm Hà ở mức 39.600 đồng/kg, tại Di Linh ở ngưỡng 39.500 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Lắk giảm 200 đồng/kg, cụ thể tại tại Cư M'gar ở mức 40.600 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 40.500 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai giảm 200 đồng/kg, giá tại Pleiku là 40.500 đồng/kg, và Ia Grai giao dịch quanh mức 40.500 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Nông giảm 200 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 40.500 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum giảm 100 đống/kg, dao động ở mức 40.500 đồng/kg
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM giảm 200 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 41.900 đồng/kg.
Giá cà phê Robusta xuất khẩu loại 2, 5% đen vỡ, đứng ở 1.983 USD/tấn, FOB – HCM, với mức trừ lùi ở 150 – 160 USD/tấn theo giá kỳ hạn tháng 1/2022 tại London.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
|
|
Bảo Lộc (Robusta) |
39,700 |
-200 |
Lâm Hà (Robusta) |
39,700 |
-200 |
Di Linh (Robusta) |
39,600 |
-200 |
ĐẮK LẮK |
|
|
Cư M'gar (Robusta) |
40.600 |
-200 |
Buôn Hồ (Robusta) |
40.500 |
-200 |
GIA LAI |
|
|
Pleiku (Robusta) |
40.500 |
-200 |
Ia Grai (Robusta) |
40.500 |
-200 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
Gia Nghĩa (Robusta) |
40.500 |
-200 |
KON TUM |
|
|
Đắk Hà (Robusta) |
40.500 |
-100 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
|
|
— R1 |
41,900 |
-200 |
FOB (HCM) |
2.188 |
Trừ lùi: +55 |
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) mới đây dự báo sản lượng cà phê Việt Nam niên vụ 2021 - 2022 phục hồi và tăng 1,8 triệu bao, lên 30,8 triệu bao sau khi khô hạn ảnh hưởng đến sự phát triển của cây cà phê vào niên vụ trước.
Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam (VICOFA) cho biết, giá cà phê nội địa chạm mốc hơn 40 triệu đồng/tấn và kết thúc chu kỳ giảm giá 4 năm liên tiếp. Tuy nhiên, giá cà phê có thể trở về thời kỳ hoàng kim 45 - 47 triệu đồng/tấn hay không phụ thuộc vào tình hình kiểm soát Covid-19 và tốc độ phục hồi kinh tế thế giới.