Giá cà phê trong nước sáng nay giảm 100 đồng/kg, giá cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 41.600 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 41.000 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê ở Lâm Đồng giảm 100 đồng/kg , tại Bảo Lộc, Lâm Hà ở mức 41.000 đồng/kg, tại Di Linh ở ngưỡng 40.900 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Lắk giảm 100 đồng/kg, cụ thể ở tại Cư M'gar ở mức 41,500 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 41,400 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai giảm 100 đồng/kg, giá ở Pleiku là 41,400 đồng/kg, và Ia Grai giao dịch quanh mức 41,400 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Nông giảm 100 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 41,400 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum giảm 100 đồng/kg, dao động ở mức 41,400 đồng/kg.
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM giảm 100 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 45,400 đồng/kg.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
|
|
Bảo Lộc (Robusta) |
41,000 |
-100 |
Lâm Hà (Robusta) |
41,000 |
-100 |
Di Linh (Robusta) |
40,900 |
-100 |
ĐẮK LẮK |
|
|
Cư M'gar (Robusta) |
41,5 00 |
-100 |
Buôn Hồ (Robusta) |
41,400 |
-100 |
GIA LAI |
|
|
Pleiku (Robusta) |
41,400 |
-100 |
Ia Grai (Robusta) |
41,400 |
-100 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
39,900 |
41,400 |
-100 |
KON TUM |
|
|
Đắk Hà (Robusta) |
41,400 |
-100 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
|
|
— R1 |
45,400 |
-100 |
FOB (HCM) |
1978 |
Trừ lùi: +55 |
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, trong tháng 6/2022, Việt Nam xuất khẩu cà phê đạt 137,4 nghìn tấn, trị giá 315,34 triệu USD, giảm 3,5% về lượng và giảm 2,8% về trị giá so với tháng 5/2022, so với tháng 6/2021 tăng 7,3% về lượng và tăng 26,9% về trị giá.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt xấp xỉ 1,02 triệu tấn, trị giá 2,3 tỷ USD, tăng 20,7% về lượng và tăng 48,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Tháng 6/2022, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam đạt 2.295 USD/tấn, tăng 0,7% so với tháng 5/2022 và tăng 18,2% so với tháng 6/2021. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam đạt 2.257 USD/ tấn, tăng 23,0% so với cùng kỳ năm 2021.
Tháng 6/2022 so với tháng 6/2021, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang nhiều thị trường chủ lực tăng, như: Đức, Bỉ, Mỹ, Tây Ban Nha và Nga. Ngược lại, xuất khẩu cà phê sang một số thị trường giảm như: Italia, Nhật Bản, Anh, Philippines và Trung Quốc.
6 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ năm 2021, xuất khẩu cà phê sang hầu hết các thị trường tăng, ngoại trừ xuất khẩu sang Philippines và Trung Quốc giảm.
Trong đó, xuất khẩu cà phê sang Bỉ và Anh tăng trưởng ba con số; sang Đức, Italia, Tây Ban Nha và Nga tăng trưởng hai con số, theo báo cáo mới nhất từ Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương).
Giá cà phê thế giới trái chiều
Khảo sát phiên giao dịch sáng ngày 16/7, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London tiếp tục suy yếu. Kỳ hạn giao ngay tháng 9 giảm thêm 7 USD, xuống 1.923 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 11 giảm thêm 11 USD, còn 1.924 USD/tấn, các mức giảm đáng kể. Khối lượng giao dịch dưới mức trung bình.
Trái lại, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York đảo chiều hồi phục. Kỳ hạn giao ngay tháng 9 tăng 4,50 cent, lên 199,80 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 12 tăng 3,85 cent, lên 196,60 cent/lb, các mức tăng khá mạnh. Khối lượng giao dịch rất cao trên mức trung bình.
USDX sụt giảm đã hỗ trợ hầu hết các hàng hóa lấy lại phần nào thua lỗ của phiên trước đó sau khi quan chức của Fed lên sóng trấn an các nhà đầu tư đã suy đoán quá mức mà chưa nghĩ đến tính chất “hai mặt” của việc nâng lãi suất cơ bản và thắt chặt kinh tế trở lại của hầu hết các NHTW trên thế giới hiện nay.
Trong khi báo cáo tồn kho Arabica của ICE – New York giảm xuống mức thấp 23 năm và Cecafé – Brasil báo cáo xuất khẩu tháng 6 chỉ tăng nhẹ 0,6% so với cùng kỳ năm trước đã hỗ trợ giá cà phê Arabica đảo chiều hồi phục. Báo cáo từ khối sản xuất Arabica chất lượng cao truyền thống Mexico – khu vực Trung Mỹ cho biết nguồn cung của khối này hiện tại dường như đã cạn kiệt, không có một khối lượng hàng đáng kể nào được giao về các cảng xuất khẩu. Các nhà rang xay khu vực Bắc Mỹ hiện phải mua cà phê giao ngay với giá cao ngất ngưởng…
Trái lại, giá cà phê xuất khẩu từ các nhà sản xuất Robusta chính vẫn duy trì ổn định với mức chênh lệch trừ (Dif.) đáng kể trong khoảng 100 – 120 USD/tấn so với giá kỳ hạn London do những vấn đề về logistics vẫn chưa được thông suốt.