Giá cà phê trong nước hôm nay cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 38.000 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 36.800 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê tại Lâm Đồng giảm 100 đồng/kg, tại Bảo Lộc, Lâm Hà ở mức 36.900 đồng/kg, tại Di Linh ở ngưỡng 36.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Lắk giảm 100 đồng/kg, cụ thể tại tại Cư M'gar ở mức 38.000 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 37.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai giảm 100 đồng/kg, giá tại Pleiku là 37.700 đồng/kg, và Ia Grai giao dịch quanh mức 37.700 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Nông giảm 100 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 37.700 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum giảm 100 đồng/kg, dao động ở mức 37.600 đồng/kg
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM giảm 100 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 39.200 đồng/kg.
Giá cà phê Robusta xuất khẩu loại 2, 5% đen vỡ, đứng ở 1.765 USD/tấn, FOB – HCM, với mức trừ lùi 70 – 80 USD/tấn theo giá kỳ hạn tháng 11 tại London.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
|
|
Bảo Lộc (Robusta) |
36,900 |
-100 |
Lâm Hà (Robusta) |
36,900 |
-100 |
Di Linh (Robusta) |
36,800 |
-100 |
ĐẮK LẮK |
|
|
Cư M'gar (Robusta) |
38.000 |
-100 |
Buôn Hồ (Robusta) |
37.800 |
-100 |
GIA LAI |
|
|
Pleiku (Robusta) |
37,700 |
-100 |
Ia Grai (Robusta) |
37,700 |
-100 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
Gia Nghĩa (Robusta) |
37,700 |
-100 |
KON TUM |
|
|
Đắk Hà (Robusta) |
37.600 |
-100 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
|
|
— R1 |
39,200 |
-100 |
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng 7/2021 đạt 110 nghìn tấn, trị giá 207 triệu USD, giảm 14,1% về lượng và giảm 16,7% về trị giá so với tháng 6/2021, so với tháng 7/2020 ổn định về lượng, nhưng tăng 5,9% về trị giá.
Lũy kế 7 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu cà phê của Việt Nam ước đạt 953 nghìn tấn, trị giá 1,754 tỷ USD, giảm 9,3% về lượng và giảm 1,7% về trị giá so với 7 tháng đầu năm 2020.
Chuyên gia Nguyễn Quang Bình nhận định: Dù Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột đã khởi động và tạo dựng một chương trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cà phê ngon – đặc sản, chú trọng đến chất lượng tách cà phê uống trên thị trường nội địa và khuyến khích xuất khẩu cà phê sạch, giá trị cao, nhưng lệnh giãn cách xã hội đang làm chậm quá trình liên kết giữa nông dân và chuỗi quán vốn rất được chú trọng trong sản xuất cà phê bền vững.
Với các hợp đồng giữa nông dân và chuỗi quán đã thiết lập trước thời giãn cách, hiện nay các chuỗi quán vẫn tiếp tục mua cà phê nguyên liệu Robusta với mức cao, từ 50-60 triệu đồng/tấn thì so với thị trường thương mại hiện nay chỉ quanh 37-37,2 triệu đồng/tấn.
Theo vị chuyên gia, thách thức của cà phê thương mại xuất khẩu đại trà ngày càng rõ, theo hướng tiêu cực, thì cách đi của Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột càng tỏ ra đúng hướng. Nông dân sản xuất cà phê bền vững đang cần sự hỗ trợ của các cấp chính quyền, không chỉ từ chính sách mà còn cần được kích hoạt bằng những gói hỗ trợ tài chính và tín dụng. Cần thấy rằng đại dịch còn kéo dài và không còn cách nào khác là phải sống chung với nhiều lần giãn cách dài ngày hay ngắt quãng. ”Nên chăng các cấp chính quyền xem đây là một cái nền mới, vững chắc hơn cho một ngành cà phê trong thời kỳ “bình thường mới””, ông Nguyễn Quang Bình nêu quan điểm.
Giá cà phê thế giới giảm
Mở cửa phiên giao dịch ngày 18/8, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London đảo chiều sụt giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 9 giảm 9 USD, xuống 1.839 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 11 giảm 8 USD, còn 1.845 USD/tấn, các mức giảm nhẹ. Khối lượng giao dịch ở mức trung bình.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York cũng đảo chiều giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 9 giảm 4,25 cent, xuống 178,95 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 12 cũng giảm 4,25 cent, còn 182 cent/lb, các mức giảm mạnh. Khối lượng giao dịch duy trì rất cao trên mức trung bình.
Đồng Reais tăng nhẹ 0,26 %, tỷ giá lên ở mức 1 USD = 5,2670 Reais do biến động mạnh từ thị trường bên ngoài.
Giá cà phê hai sàn giảm trở lại theo đà giảm của hầu hết các thị trường hàng hóa nông sản nói chung khi đồng Reais và các tiền tệ mới nổi suy yếu trở lại. Trong khi đó, báo cáo lượng tồn kho tại các thị trường tiêu thụ lớn vẫn duy trì đà tăng, là do nguồn cung dồi dào hay sức tiêu thụ chậm lại khiến cà phê bị dồn ứ (?).
Tâm điểm của thị trường cà phê thế giới vẫn là các tin tức dự báo thời tiết hiện nay tại vành đai cà phê ở niền nam Brasil, trong khi hãng tin thời tiết Somar dự báo đến cuối tuần chỉ có mưa rải rác không đáng kể. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là thời tiết mùa đông ở Brasil thường khô hanh, phù hợp để cho cây cà phê phân hóa mầm hoa.
Trong 6 tháng đầu năm 2021, New Zealand tăng nhập khẩu cà phê rang và loại bỏ caffeine (mã HS 090111), tăng 6,7% về lượng và tăng 5,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020, đạt 6,4 nghìn tấn, trị giá 23 triệu USD.
Đáng chú ý, New Zealand tăng mạnh nhập khẩu chủng loại cà phê đã khử caffeine (không bao gồm rang - HS 090112), tăng 93,2% về lượng và tăng 88,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020, đạt 158 tấn, trị giá 864 nghìn USD.
Giá nhập khẩu bình quân cà phê của New Zealand trong 6 tháng đầu năm đạt 4.775 USD/tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm 2020.
Trong đó, giá nhập khẩu bình quân cà phê của New Zealand từ các thị trường Colombia, Honduras và Papua New Guinea tăng, trong khi giá nhập khẩu từ Brazil và Việt Nam giảm.
Trong thời gian này, New Zealand tăng nhập khẩu cà phê từ các thị trường như Brazil và Honduras, nhưng giảm nhập khẩu từ Colombia và Việt Nam, theo báo cáo từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương).
New Zealand là thị trường tiềm năng đối với các nước xuất khẩu cà phê. Xu hướng tiêu dùng của người dân quốc gia này có sự chuyển dịch mạnh mẽ từ uống trà sang uống cà phê, theo báo cáo từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương).
Nhu cầu tiêu thụ cà phê của New Zealand tăng mạnh trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, đặc biệt là đối với cà phê hữu cơ.
Theo số liệu thống kê từ Trung tâm Thương mại Quốc tế, tốc độ nhập khẩu cà phê của New Zealand trong giai đoạn 2016 - 2020 tăng trưởng bình quân 3,1%/năm (tính theo lượng) và tăng 4,5%/năm (tính theo trị giá), từ 13,86 nghìn tấn, trị giá 63,3 triệu USD năm 2016 tăng lên 15,56 nghìn tấn, trị giá 75 triệu USD năm 2020.
Tuy nhiên, nhập khẩu cà phê của New Zealand từ Việt Nam giảm bình quân 1,4%/năm về lượng và giảm 2,1%/năm (tính theo trị giá), từ 1,73 nghìn tấn, trị giá 3,31 triệu USD năm 2016 xuống 1,48 nghìn tấn, trị giá 2,6 triệu USD.