Giá cà phê thế giới suy giảm
Khảo sát giá cà phê thế giới sáng ngày 19/10, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London tiếp tục sụt giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 11 giảm thêm 7 USD, xuống 2.103 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 1/2022 giảm thêm 6 USD, còn 2.115 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 3/2022 giảm thêm 14 USD, còn 2.070 USD/tấn, các mức giảm nhẹ. Khối lượng giao dịch duy trì trên mức trung bình. Cấu trúc giá nghịch đảo nới rộng khoảng cách.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York cùng xu hướng giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 12 giảm thêm 1,65 cent, xuống 201,75 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 3/2022 cũng giảm thêm 1,65 cent, còn 204,60 cent/lb, các mức giảm đáng kể. Khối lượng giao dịch rất cao trên mức trung bình.
Đồng Reais giảm 1,21%, tỷ giá xuống ở mức 1 USD = 5,5200 Reais do áp lực suy thoái của đối tác hàng đầu và những bất ổn tài chính dai dẳng không dễ gì tháo gỡ đã tác động lên tiền tệ Brasil.
Trong khi đó, USDX và chứng khoán Mỹ liên tiếp đứng ở mức cao trong bối cảnh kỳ vọng sự phát triển của công nghiệp sẽ làm giảm lo ngại lạm phát.
Giá cà phê tiếp tục sụt giảm cũng không ngoài dự kiến của thị trường khi vành đai cà phê ở miền nam Brasil đã có mưa thuận lợi hỗ trợ để làm bông vụ mới. Báo cáo thời tiết của Somar Metorologia cho biết trong tuần qua đã có lượng mưa dồi dào và dự báo trong tuần này sẽ có mưa lớn bao phủ suốt cả tuần. Có lẽ người trồng cà phê ở Brasil cần có mưa làm bông vụ mới không còn là vấn đề để đầu cơ quan tâm nữa.
Tuy nhiên, sự sụt giảm của sàn New York cũng là một áp lực kéo giảm London khi sàn này đáo hạn hợp đồng quyền chọn kỳ hạn tháng 11. Theo quan sát, lượng hợp đồng mở ở London cũng không còn nhiều, trong khi giá cà phê Robusta vẫn còn sự hỗ trợ đáng kể với cấu trúc giá nghịch đảo kéo dài và báo cáo tồn kho tại sàn tiếp tục sụt giảm.
Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), so với niên vụ 2019-2020, sản lượng cà phê thế giới niên vụ 2021-2022 sẽ giảm 11 triệu bao xuống còn 164,8 triệu bao.
Đồng thời, xuất khẩu cà phê toàn cầu được dự báo sẽ giảm 4,8 triệu bao xuống 115,5 triệu bao và tồn kho cà phê cuối niên vụ 2021-2022 cũng dự kiến giảm 7,9 triệu bao xuống còn 32 triệu bao.
Trong khi đó, tiêu thụ cà phê thế giới được dự báo sẽ tăng 1,8 triệu bao lên 165 triệu bao, với mức tăng lớn nhất được ghi nhận ở Liên minh châu Âu, Mỹ và Brazil.
Còn theo Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO), lượng cà phê nhập khẩu toàn cầu trong niên vụ 2020-2021 tăng khoảng 5% so với niên vụ 2019-2020, lên gần 83 triệu bao (loại 60kg), theo báo cáo từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương).
Về giá cà phê tuần này, chuyên gia Nguyễn Quang Bình dự báo, giá trên sàn phái sinh Robusta tuần trước chưa chịu tăng sau bao nhiêu lần cố thử mức 2.171, nhưng chỉ dừng lại tại 2.165. Thế mà, đáy 2.094 lại để bị phá và chạm 2.075. Như vậy, nhìn theo đồ thị của nhà phân tích độc lập Phan Trọng Anh, có thể nói rằng từ 1 tháng nay, London nỗ lực kiếm đường đi lên và hoàn toàn bất thành nhưng lại tìm cách đi xuống để gặp mức sâu nhất là 2.075. Trong tuần này, có lúc nào đó London vỡ vùng 2.075 thì chắc đấy là hướng chọn xuống đến 2.055 và sâu hơn.
Giá trong nước giảm nhẹ
Giá cà phê trong nước sáng nay giảm 100 đồng/kg sau phiên tăng nhẹ hôm qua, giá cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 40.300 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 39.300 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê ở Lâm Đồng giảm 100 đồng/kg, tại Bảo Lộc, Lâm Hà ở mức 39.400 đồng/kg, tại Di Linh ở ngưỡng 39.300 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Lắk giảm 100 đồng/kg, cụ thể tại tại Cư M'gar ở mức 40.300 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 40.200 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai giảm 100 đồng/kg, giá tại Pleiku là 40.200 đồng/kg, và Ia Grai giao dịch quanh mức 40.200 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Nông giảm 100 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 40.200 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum giảm 100 đồng/kg, dao động ở mức 40.200 đồng/kg
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM giảm 100 đồng/kg, dao động ở ngưỡng 41.600 đồng/kg.
Giá cà phê Robusta xuất khẩu loại 2, 5% đen vỡ, đứng ở 1.955 USD/tấn, FOB – HCM, với mức trừ lùi ở 150 – 160 USD/tấn theo giá kỳ hạn tháng 1/2022 tại London.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
|
|
Bảo Lộc (Robusta) |
39,400 |
-100 |
Lâm Hà (Robusta) |
39,400 |
-100 |
Di Linh (Robusta) |
39,300 |
-100 |
ĐẮK LẮK |
|
|
Cư M'gar (Robusta) |
40.300 |
-100 |
Buôn Hồ (Robusta) |
40.200 |
-100 |
GIA LAI |
|
|
Pleiku (Robusta) |
40.200 |
-100 |
Ia Grai (Robusta) |
40.200 |
-100 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
Gia Nghĩa (Robusta) |
40.200 |
-100 |
KON TUM |
|
|
Đắk Hà (Robusta) |
40.200 |
-100 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
|
|
— R1 |
41,600 |
-100 |
FOB (HCM) |
2.165 |
Trừ lùi: +55 |
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) mới đây dự báo sản lượng cà phê Việt Nam niên vụ 2021 - 2022 phục hồi và tăng 1,8 triệu bao, lên 30,8 triệu bao sau khi khô hạn ảnh hưởng đến sự phát triển của cây cà phê vào niên vụ trước.
Thông tin từ Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam (VICOFA) cho biết, giá cà phê nội địa chạm mốc hơn 40 triệu đồng/tấn và kết thúc chu kỳ giảm giá 4 năm liên tiếp. Tuy nhiên, giá cà phê có thể trở về thời kỳ hoàng kim 45 - 47 triệu đồng/tấn hay không phụ thuộc vào tình hình kiểm soát Covid-19 và tốc độ phục hồi kinh tế thế giới. Mà các yếu tố này đang thay đổi từng ngày.