Giá trong nước ổn định phiên đầu tuần
Tuần qua, thị trường cà phê nhìn chung có xu hướng đi xuống, các tỉnh thành ghi nhận mức giảm từ 900 đồng/kg đến 1.000 đồng/kg.
Giá cà phê trong nước sáng nay 8/11 đi ngang, giá cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 40.800 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 39.800 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê ở Lâm Đồng đi ngang, tại Bảo Lộc, Lâm Hà ở mức 39.900 đồng/kg, tại Di Linh ở ngưỡng 39.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Lắk không đổi, cụ thể tại tại Cư M'gar ở mức 40.800 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 40.700 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai ổn định, giá tại Pleiku là 40.700 đồng/kg, và Ia Grai giao dịch quanh mức 40.700 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Nông đứng yên, dao động ở ngưỡng 40.700 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum không đổi, dao động ở mức 40.600 đồng/kg
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM, dao động ở ngưỡng 42.100 đồng/kg.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
|
|
Bảo Lộc (Robusta) |
39,900 |
0 |
Lâm Hà (Robusta) |
39,900 |
0 |
Di Linh (Robusta) |
39,800 |
0 |
ĐẮK LẮK |
|
|
Cư M'gar (Robusta) |
40.800 |
0 |
Buôn Hồ (Robusta) |
40.700 |
0 |
GIA LAI |
|
|
Pleiku (Robusta) |
40.700 |
0 |
Ia Grai (Robusta) |
40.700 |
0 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
Gia Nghĩa (Robusta) |
40.700 |
0 |
KON TUM |
|
|
Đắk Hà (Robusta) |
40.600 |
0 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
|
|
— R1 |
42,000 |
0 |
FOB (HCM) |
2.281 |
Trừ lùi: +55 |
2 ngày cuối tuần, giá cà phê trong nước giảm 1.000 đồng/kg trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 bùng phát khiến vụ thu hoạch cà phê mới gặp nhiều khó khăn.
Tại nhà cung cấp Việt Nam, vụ thu hoạch ở Tây Nguyên vừa bắt đầu và đang được thời tiết ủng hộ. Thời tiết tạnh ráo, sau những đợt mưa kéo dài thời điểm cuối tháng 10/2021. Tuy nhiên sự thiếu hụt nhân công thời vụ hiện vẫn là mối lo chính của người trồng cà phê. Trong khi đó, tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến rất phức tạp ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ thu hoạch.
Tuy nhiên, mùa vụ đang ủng hộ người trồng cà phê Việt Nam, khi mùa thu hoạch cà phê của các nước ở Bán cầu Nam (Brazil, Colombia…) thường từ tháng 5 đến tháng 10 thì Việt Nam thu hoạch cà phê từ tháng 11 hàng năm đến hết tháng 4 năm sau.
Theo đánh giá của các chuyên gia, ở thời điểm này nguồn cung từ Việt Nam đang ở thế “một mình một chợ”, nên thành hay bại trong xuất khẩu vào thời điểm này là nằm trong thế chủ động của các doanh nghiệp cà phê Việt Nam nếu biết điều tiết sản lượng bán ra hợp lý và đàm phán với đối tác để đạt được hợp đồng giá có lợi nhất.
Các chuyên gia khuyến cáo, tranh thủ thị trường đang có mức giá tốt như hiện nay, các nhà sản xuất Việt Nam nên sớm thúc đẩy đưa hàng vụ mới ra thị trường. Bởi nếu muộn hơn, khi Fed tăng lãi suất, đồng thời với sản lượng của Brazil năm sau có thể được mùa sẽ đẩy giá cà phê đi xuống.
Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam dự báo, xuất khẩu cà phê 2 tháng còn lại mỗi tháng sẽ đạt khoảng 130 nghìn tấn, nếu vẫn giữ được giá cao như hiện nay, có thể đem về thêm 600 triệu USD trong 2 tháng cuối năm, để đưa kim ngạch cà phê cả năm lập lại ngưỡng 3 tỷ USD.
Trong thời gian tới, xuất khẩu cà phê của Việt Nam dự báo sẽ thuận lợi hơn khi Việt Nam đã bước vào vụ thu hoạch mới 2021-2022. Đồng thời, dịch COVID-19 trong nước cơ bản đã được kiểm soát, giúp thuận lợi trong khâu sản xuất, thu hoạch và tiêu thụ.
Bên cạnh đó, giá xuất khẩu có xu hướng tăng do lo ngại thiếu hụt nguồn cung và các FTA sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong thời gian tới.
So với quý II/2021 và so với cùng kỳ năm 2020, trị giá xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong quý III/2021 sang châu Á giảm, trong khi xuất khẩu sang châu Âu, châu Mỹ, châu Phi tăng trưởng khả quan.
Tỷ trọng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang châu Âu tăng từ 42,34% trong quý III/2020 lên 48% trong quý III/2021; châu Mỹ tăng từ 10,7% lên 11,4%; châu Phi tăng mạnh từ 4,34% lên 6,85%. Ngược lại, tỷ trọng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang châu Á giảm từ 41,06% trong quý III/2020 xuống 32,72% trong quý III/2021.
Quý III/2021 so với quý II/2021, xuất khẩu tất cả các chủng loại cà phê đều giảm, mức giảm thấp nhất 3,3% đối với cà phê robusta. So với quý III/2020, xuất khẩu cà phê robusta và arabica tăng lần lượt 27,9% và 26,6%.
Trong 9 tháng năm 2021, xuất khẩu hầu hết các chủng loại cà phê tăng so với cùng kỳ năm 2020, ngoại trừ cà phê arabica, theo báo cáo mới nhất từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương).
Giá cà phê thế giới suy giảm
Khảo sát giá cà phê thế giới phiên gần nhất, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London sụt giảm liên tiếp phiên thứ tư. Kỳ hạn giao ngay tháng ở mức 2.181 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 3 còn 2.131 USD/tấn.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York cùng xu hướng giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 12 xuống mức 203,55 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 3 cũng giảm còn 206,40 cent/lb, các mức giảm mạnh.
Sang tháng 10/2021, giá cà phê thế giới liên tục tăng, ghi nhận mức cao kỷ lục vào ngày 27/10, nhưng sau đó có dấu hiệu hạ nhiệt trong hai ngày 28/10 và 29/10, theo báo cáo mới nhất từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương).
Trên sàn giao dịch London, giá cà phê robusta giao kỳ hạn tháng 11/2021, tháng 1/2022, tháng 3/2022 và tháng 5/2022 tăng lên mức cao kỷ lục gần 10 năm, lần lượt là 2.325 USD/tấn, 2.270 USD/tấn, 2.186 USD/tấn và 2.150 USD/tấn vào ngày 27/10.
Sau đó, 4 hợp đồng này đều có dấu hiệu hạ nhiệt, giảm xuống mức tương ứng là 2.230 USD/tấn, 2.177 USD/tấn, 2.128 USD/tấn và 2.100 USD/tấn vào ngày 29/10, nhưng so với ngày 30/9 vẫn tăng lần lượt 5,4%, 3,2%, 3,4% và 3,1%.
Trên Sàn giao dịch New York, sau khi ghi nhận mức cao kỷ lục vào cuối tháng 7/2021, giá cà phê arabica kỳ hạn có xu hướng giảm trong tháng 8/2021 và 9/2021. Sang tháng 10/2021, giá cà phê arabica tăng so với tháng 9/2021 do yếu tố thời tiết không thuận lợi và dự báo nguồn cung thiếu hụt.
Chốt phiên giao dịch ngày 29/10, giá cà phê arabica giao kỳ hạn tháng 12/2021, tháng 3/2022, tháng 5/2022 và tháng 7/2022 tăng lần lượt 3,4%, 3,3%, 3,1% và 3,1% so với ngày 30/9, lên mức 199,95 US cent/lb, 202,7 US cent/ lb, 203,45 US cent/lb và 204 US cent/lb.
Trên sàn giao dịch BMF của Brazil, vào ngày 29/10, giá cà phê giao kỳ hạn tháng 12/2021, tháng 3/2022, tháng 5/2022 và tháng 9/2022 tăng lần lượt 2,7%, 3,8%, 3,5%, 4,5% so với ngày 30/9, lên mức 239,55 US cent/lb, 246,3 US cent/lb, 246,15 US cent/lb và 246,5 US cent/lb.
Tại cảng khu vực thành phố Hồ Chí Minh, cà phê robusta xuất khẩu loại 2, tỷ lệ đen vỡ 5% giao dịch ở mức giá 2.302 USD/tấn, chênh lệch +55 USD/tấn, tăng mạnh 131 USD/tấn (tương đương mức tăng 6,0%) so với ngày 30/9/2021.