Giá tiêu cao nhất ở ngưỡng 69.500 đồng/kg được ghi nhận ở Bà Rịa - Vũng Tàu, thấp nhất 66.500 đồng/kg tại Gia Lai.
Hôm nay giá tiêu tại Đắk Nông (Gia Nghĩa) và Đắk Lắk (Ea H'leo) ổn định, dao động trong mức 67.500 đồng/kg.
Giá tiêu tại Gia Lai đi ngang, dao động ở ngưỡng 66.500 đồng/kg.
Giá tiêu tại các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đứng giá, dao động trong ngưỡng 69.500 đồng/kg.
Giá tiêu tại Bình Phước không đổi, dao động ở ngưỡng 68.500 đồng/kg.
Giá tiêu tại Đồng Nai ổn định, dao động ở ngưỡng 67.000 đồng/kg.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
ĐẮK LẮK |
|
|
— Ea H'leo |
67.500 |
0 |
GIA LAI |
|
|
— Chư Sê |
66.500 |
0 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
— Gia Nghĩa |
67.500 |
0 |
BÀ RỊA - VŨNG TÀU |
|
|
— Tiêu |
69.500 |
0 |
BÌNH PHƯỚC |
|
|
— Tiêu |
68.500 |
0 |
ĐỒNG NAI |
|
|
— Tiêu |
67.000 |
0 |
Theo báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương), trong 18 ngày đầu tháng 7/2023, giá hạt tiêu đen tại thị trường nội địa nhìn chung biến động trong biên độ hẹp (tăng/giảm 500 đồng/kg) và ổn định so với cuối tháng 6/2023.
Ghi nhận vào ngày 18/7, giá hạt tiêu đen tại thị trường nội địa ổn định ở mức 67.000 – 70.000 đồng/kg (tùy từng khu vực khảo sát).
Song song đó, giá hạt tiêu trắng được ghi nhận ở mức 101.000 đồng/kg, ổn định so với cuối tháng 6/2023, nhưng vẫn thấp hơn 106.000 đồng/kg cùng kỳ năm ngoái.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam trong tháng 6/2023 đạt 21,23 nghìn tấn, trị giá xấp xỉ 76,74 triệu USD, giảm 26,6% về lượng và giảm 14,6% về trị giá so với tháng 5/2023, so với tháng 6/2022 giảm 12,2% về lượng và giảm 23,2% về trị giá.
Trong quý II/2023, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam đạt 76,61 nghìn tấn, trị giá 250,08 triệu USD, tăng 0,4% về lượng và tăng 6,9% về trị giá so với quý I/2023, so với quý II/2022 tăng 8,4% về lượng, nhưng giảm 19,9% về trị giá.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam đạt xấp xỉ 152,68 nghìn tấn, trị giá 483,17 triệu USD, tăng 23,6% về lượng, nhưng giảm 13,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Giá tiêu thế giới
Giá tiêu Malaysia có thể tăng tới 20% cuối năm nay
Khảo sát phiên giao dịch ngày 27/7, Cộng đồng Hồ tiêu Quốc tế (IPC) niêm yết giá tiêu đen Lampung (Indonesia) chốt tại 3.726 USD/tấn, giảm 0,16%; giá tiêu đen Brazil ASTA 570 ở mức 2.900 USD/tấn; giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA giữ mức 4.900 USD/tấn.
Giá tiêu trắng Muntok 6.451 USD/tấn, giảm 0,17%; giá tiêu trắng Malaysia ASTA vẫn ở 7.300 USD/tấn.
Giá tiêu đen Việt Nam giao dịch ở 3.500 USD/tấn với loại 500 g/l, loại 550 g/l mức 3.600 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 5.000 USD/tấn.
Thông tin đăng trên thestar.com của Malaysia, tác giả Jack Wong dẫn lời một thương nhân địa phương hàng đầu nhận định, sự phục hồi giá tiêu nội địa của quốc gia này bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2023, dự kiến sẽ tăng tốc vào nửa cuối năm 2023. Khả năng giá tiêu tăng thêm 10% so với mức hiện tại, thậm chí 20%.
Nhiều thương nhân, bao gồm cả những người ở Malaysia và Việt Nam (nhà sản xuất và xuất khẩu hạt tiêu hàng đầu thế giới), trước đó đã dự đoán thị trường hạt tiêu sẽ phát triển mạnh mẽ vào năm 2023. Nhưng dựa trên xu hướng thị trường hiện tại, nhận định đó có thể quá lạc quan.
Đầu năm giá tiêu có nhích lên khá nhiều do mở cửa lại biên giới (do dịch Covid bắt đầu dịu bớt). Sau khi Trung Quốc mở cửa trở lại biên giới, giá tiêu tăng vọt do nhu cầu tăng cao vì trong 2 năm đại dịch, Trung Quốc không nhập khẩu tiêu. Tuy nhiên, giá bắt đầu giảm sau đó.
Sau đại dịch, các nhà nhập khẩu ở các nước tiêu thụ đã thay đổi chiến lược chỉ thu mua tận tay thay vì trữ lượng lớn từ 200 đến 300 tấn như trước đây. Điều này đã làm chậm nhu cầu.
Đồng USD mạnh và lạm phát là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến tiêu dùng hạt tiêu. Trong tuần vừa qua, giá tiêu nội địa Malaysia tiếp tục tăng qua do một phần tác động từ việc đồng Ringgit Malaysia tăng 2% so với USD (4.55 MYR/USD).
Theo IPC, sản lượng hồ tiêu Malaysia năm 2023 dự báo đạt 23.000 tấn, tăng 5% so với năm trước. Cùng với sự gia tăng về sản lượng, IPC cũng dự báo lượng xuất khẩu hồ tiêu của Malaysia tăng trong năm nay.