Table of Contents
- Câu 1 trang 4 SGK Ngữ văn 7 tập 2: Đọc kĩ các câu tục ngữ và chú thích trong bài để hiểu văn bản và những từ ngữ khó
- Câu 2 trang 4 SGK Ngữ văn 7 tập 2: Có thể chia tám câu tục ngữ trong bài làm mấy nhóm? Mỗi nhóm gồm những câu nào? Gọi tên từng nhóm đó.
- Câu 3 trang 4 SGK Ngữ văn 7 tập 2: Phân tích từng câu tục ngữ
- Câu 4 trang 5 SGK Ngữ văn 7 tập 2: Minh họa những đặc điểm nghệ thuật
Câu 1 trang 4 SGK Ngữ văn 7 tập 2: Đọc kĩ các câu tục ngữ và chú thích trong bài để hiểu văn bản và những từ ngữ khó
- Mau: trái với thưa; ở đây có nghĩa là nhiều
- Ráng mỡ gà: sắc màu vàng tựa màu mỡ gà phía chân trời do ánh mặt trời chiếu vào mây. Khi chân trời có ráng vàng là sắp có dông bão.
- Thì: là thời vụ thích hợp nhất cho việc trồng trọt; mùa nào trồng cây ấy lúc thời tiết thích hợp.
- Thục: cày đi bừa lại để có đất tốt, thuận tiện cho sự phát triển của các loại cây trồng.
Câu 2 trang 4 SGK Ngữ văn 7 tập 2: Có thể chia tám câu tục ngữ trong bài làm mấy nhóm? Mỗi nhóm gồm những câu nào? Gọi tên từng nhóm đó.
Bốn câu đầu nói về thiên nhiên.
Bốn câu sau nói về lao động sản xuất
Câu 3 trang 4 SGK Ngữ văn 7 tập 2: Phân tích từng câu tục ngữ
Câu tục ngữ 1: Đây là kinh nghiệm về đặc điểm thời tiết các mùa trong năm:
Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
Nghĩa đen của câu tục ngữ này là: tháng năm (Âm lịch), thì đêm ngắn, ngày dài, tháng mười thì đêm dài, ngày ngắn. Cách nói cường điệu có tác dụng nhấn mạnh đặc điểm ấy. Phép đối xứng giữa hai vế câu làm nổi bật sự trái ngược trong tính chất của đêm mùa hạ và ngày mùa đông. Có thể vận dụng nội dung của câu tục ngữ này vào chuyện sắp xếp công việc hoặc giữ gìn sức khỏe trong mùa hè và mùa đông.
Câu tục ngữ 2: Là kinh nghiệm về nắng mưa:
Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
Câu này có hai vế đối xứng, nhấn mạnh ý: Sự khác biệt về mật độ sao trên bầu trời đêm trước sẽ dẫn đến sự khác biệt về hiện tượng mưa, nắng trong những ngày sau đó.
Nghĩa cả câu: Đêm trước nhiều sao báo hiệu ngày hôm sau sẽ nắng. Đêm trước ít sao báo hiệu ngày hôm sau sẽ mưa. Kinh nghiệm này được đúc kết từ hiện tượng trông sao đoán thời tiết đã có từ lâu của nông dân ta. Nắm được thời tiết (mưa, nắng) để chủ động sắp xếp công việc.
Câu tục ngữ 3: Là kinh nghiệm về hiện tượng thời tiết trước khi có bão:
Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ.
Ráng là màu vàng xuộm của mây do mặt trời chiếu vào. Ráng mỡ gà thường xuất hiện ở phía chân trời trước khi có giông bão. Nó báo trước để con người biết mà lo chống giữ nhà cửa cho chắc chắn. Nghệ thuật trong câu là vần lưng. Hiện nay, ngành khí tượng đã có nhiều phương tiện khoa học hiện đại để dự báo bão khá chính xác nhưng những kinh nghiệm dân gian vẫn còn tác dụng.
Câu tục ngữ 4: Là kinh nghiệm về hiện tượng thời tiết trước khi có lụt:
Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt.
Cứ đến tháng bảy (Âm lịch) mà kiến rời khỏi tổ từng đàn lớn, kéo nhau từ chỗ đất thấp lên chỗ đất cao thì nhất định thể nào cũng xảy ra lụt lội. Kiến là loại côn trùng rất nhạy cảm với những thay đổi của khí hậu, thời tiết. Nghệ thuật của câu là vần lưng. Kinh nghiệm này nhắc nhở mọi người phải chuẩn bị phòng chống lũ lụt sau tháng bảy Âm lịch.
Câu tục ngữ 5: Là nhận xét của nông dân về giá trị của đất đai:
Tấc đất, tấc vàng.
Hình thức câu tục ngữ này được rút gọn tối đa chỉ có bốn tiếng chia thành hai vế đối xứng rất dễ hiểu, dễ nhớ. Nội dung của nó nêu bật giá trị của đất đai canh tác.
Tấc đất: mảnh đất rất nhỏ. Vàng là kim loại quý thường được cân đo bằng cân tiểu li, hiếm khi đo bằng tấc thước. Tấc vàng chỉ lượng vàng lớn , quý giá vô cùng. Câu tục ngữ đã lấy cái có giá trị rất nhỏ (tấc đất) để so sánh với cái có giá trị rất lớn (tấc vàng) để khẳng định giá trị của đất đai đối với nhà nông. Đất quý giá vì đất nuôi sống con người. Con người phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới có được đất đai. Vàng thật dù nhiều đến đâu nhưng ngồi không ăn mãi cũng hết (Miệng ăn núi lở), còn chất vàng của đất đai khai thác hết thế hệ này sang thế hệ khác, mãi mãi không bao giờ vơi cạn. Vì thế con người cần sử dụng đất đai sao cho có hiệu quả nhất.
Người ta có thể sử dụng câu tục ngữ này trong nhiều trường hợp. Chẳng hạn như: để phê phán hiện tượng lãng phí đất; để đề cao giá trị của đất và thể hiện sự gắn bó yêu quý đất đai của người nông dân.
Câu tục ngữ 6: Là nhận xét và kinh nghiệm về hiệu quả của các hình thức chăn nuôi, trồng trọt:
Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền.
Chuyển câu tục ngữ có phép liệt kê này từ tiếng Hán Việt sang tiếng Việt thì nó có nghĩa là: thứ nhất nuôi cá, thứ nhì làm vườn, thứ ba làm ruộng. Thứ tự lợi ích của các nghề nuôi cá, làm vườn, trồng lúa mang lại cho người nông dân. Trong các nghề kể trên, đem lại nhiều lợi ích nhất là nuôi cá (canh trì), tiếp theo là nghề làm vườn (canh viên), sau đó là làm ruộng (canh điền). Bài học rút ra từ câu tục ngữ trên là: Muốn làm giàu, cần phải phát triển nuôi trồng thủy sản. Trong thực tế, bài học này đã được áp dụng triệt để. Nghề nuôi tôm, cá ở nước ta ngày càng được đầu tư phát triển, thu lợi nhuận lớn gấp nhiều lần trồng lúa.
Nhưng không phải thứ tự trong câu tục ngữ áp dụng nơi nào cũng đúng mà chúng phụ thuộc vào đặc điểm địa lí tự nhiên của từng vùng. Nói tóm lại, con người phải linh hoạt, sáng tạo trong công việc để tạo ra nhiều của cải vật chất nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
Câu tục ngữ 7: Nội dung câu này khẳng định tầm quan trọng của các yếu tố cần thiết của nghề trồng lúa:
Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
Phép liệt kê có tác dụng vừa nêu rõ thứ tự, vừa nhấn mạnh vai trò của từng yếu tố. Nghĩa cả câu là: Thứ nhất là nước, thứ hai là phân, thứ ba là chuyên cần, thứ tư là giống. Kinh nghiệm này được đúc kết từ nghề trồng lúa nước là phải bảo đảm đủ bốn yếu tố: nước, phân, cần, giống, trong đó yếu tố quan trọng hàng đầu là nước. Câu tục ngữ trên giúp người nông dân thấy được tầm quan trọng của từng yếu tố cũng như mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố đối với nhau.
Câu tục ngữ 8: Là kinh nghiệm trong việc trồng lúa nói riêng và trồng trọt các loại cây khác nói chung:
Nhất thì, nhì thục.
Hình thức câu tục ngữ này đặc biệt ở chỗ nó được rút gọn tối đa và chia làm 2 vế đối xứng. Nội dung nhấn mạnh hai yếu tố thì và thục. Thì: là thời vụ. Thục: là đất canh tác tơi xốp phù hợp với việc trồng cây. Nội dung câu tục ngữ này khẳng định trong trồng trọt, quan trọng nhất là thời vụ (thời tiết), thứ hai là đất canh tác phải tốt.
Nghề trồng lúa nhất thiết phải gieo cấy đúng thời vụ và sau mỗi vụ thu hoạch phải tập trung cải tạo đất để chuẩn bị tốt cho vụ sau.
Câu 4 trang 5 SGK Ngữ văn 7 tập 2: Minh họa những đặc điểm nghệ thuật
Câu tục ngữ: Ráng mỡ gà có nhà thì giữ: Ngắn gọn: Số lượng từ: 7 từ; Thường có vần, nhất là vần lưng: từ “gà” vần với từ “nhà”; Hai vế đối xứng cả hình thức lẫn nội dung: “ráng mỡ gà” đối với vế “có nhà thì giữ”; Lập luận chặt chẽ, giàu hình ảnh: hình ảnh “ráng mỡ” ở chân trời báo hiệu trời sắp có mưa bão lớn.