Theo Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), khoảng 50% doanh nghiệp logistics cho biết họ có nhu cầu tuyển dụng thêm từ 15% đến 20% nhân sự mỗi năm, tuy nhiên số lao động được đào tạo bài bản chỉ chiếm khoảng 5 - 7% tổng lực lượng lao động của ngành.
Một số báo cáo khác cũng cho thấy nguồn cung nhân lực chất lượng cao mới chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu thực tế.
Hiệp hội Phát triển Nhân lực Logistics Việt Nam (VALOMA) dự báo, đến năm 2030, ngành logistics trong nước sẽ cần khoảng 2,2 triệu nhân lực, trong đó khoảng 200.000 nhân sự chất lượng cao được đào tạo chuyên sâu về logistics và quản lý chuỗi cung ứng.
TS. Huỳnh Thị Minh Châu - Phó Trưởng Khoa Quản lý Công nghiệp - Trường Đại học Bách khoa (ĐHQG-HCM) đánh giá: “Từ góc độ của một đơn vị đào tạo, chúng tôi nhận thấy lực lượng lao động hiện nay vẫn còn hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt là năng lực vận hành theo chuẩn mực quốc tế, kỹ năng ứng dụng công nghệ và phân tích dữ liệu, cùng với kiến thức về thương mại tự do và quản trị rủi ro trong chuỗi cung ứng”.
Theo TS. Huỳnh Thị Minh Châu, trong bối cảnh các khu thương mại tự do yêu cầu mô hình vận hành nhanh, minh bạch, ứng dụng công nghệ sâu và kết nối đa quốc gia, hệ thống giáo dục – nhất là các chương trình đào tạo logistics và quản lý chuỗi cung ứng – cần đổi mới toàn diện để đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động.
Sự hình thành các khu thương mại tự do dự báo sẽ kéo theo nhu cầu lớn về nhân lực có trình độ cao trong các lĩnh vực như logistics số, tự động hóa kho bãi, phân tích và thiết kế mạng lưới chuỗi cung ứng, quản lý tuân thủ thương mại quốc tế, cùng đội ngũ quản lý vận hành khu thương mại tự do có tư duy chiến lược.
Điều này đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải nhanh chóng điều chỉnh chương trình, cập nhật chuẩn đầu ra, phát triển các học phần mới liên quan đến vận hành khu thương mại tự do và logistics số; tăng cường các phương pháp đào tạo dựa trên mô phỏng và trải nghiệm thực tiễn; đồng thời mở rộng hợp tác với doanh nghiệp logistics, cảng biển, trung tâm phân phối và các nhà cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba (3PL) và bên thứ tư (4PL) để gắn kết đào tạo với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp.
TS. Huỳnh Thị Minh Châu nhấn mạnh, các trường có thể xem xét xây dựng các trung tâm đào tạo và nghiên cứu logistics gắn với yêu cầu vận hành khu thương mại tự do tại các địa phương trọng điểm; thúc đẩy mô hình liên kết công – tư trong phát triển chương trình và đào tạo thực hành; chuẩn hóa đội ngũ giảng viên theo tiêu chuẩn quốc tế; và tham gia xây dựng khung năng lực quốc gia dành cho nhân lực làm việc trong mô hình khu thương mại tự do.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các nền kinh tế toàn cầu, mô hình Khu thương mại tự do (FTZ) và Quốc gia Thương mại Tự do (FTC) đang trở thành xu hướng phát triển nổi bật, góp phần thúc đẩy giao thương và giảm thiểu rào cản thương mại.
Việt Nam đang đứng trước cơ hội quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo trong lĩnh vực logistics và quản lý chuỗi cung ứng. Việc các cơ sở giáo dục chủ động đổi mới nội dung, phương pháp và mô hình hợp tác đào tạo sẽ đóng vai trò then chốt trong việc hình thành nguồn nhân lực có năng lực cạnh tranh, đáp ứng hiệu quả yêu cầu phát triển của các khu thương mại tự do và hỗ trợ tiến trình hội nhập sâu rộng của Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu.


