- Đôi nét về Đại thi hào Nguyễn Trãi
- Những bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Trãi
- Bình Ngô Đại Cáo (năm 1428)
- Hạ quy Lam Sơn kỳ 1 (Mừng về Lam Sơn kỳ 1)
- Hạ quy Lam Sơn kỳ 2 (Mừng về Lam Sơn kỳ 2)
- Hạ tiệp kỳ 4 (Mừng vua thắng trận kỳ 4)
- Côn Sơn ca
- Quy Côn Sơn chu trung tác
- Ba tiêu (Cây chuối)
- Thuật hứng bài 24
- Thủ vỹ ngâm
- Bạch Đằng hải khẩu
- Tự thán
- Thu dạ khách cảm (Lữ xá tiêu tiêu tịch tác môn)
- Ký hữu (Bán sinh thế lộ thán truân chiên)
- Ký hữu (Loạn hậu thân bằng lạc diệp không)
- Quan hải
- Đề kiếm
- Thính vũ (Nghe mưa)
- Hoạ Hương tiên sinh vận giản chư đồng chí
- Mạn hứng kỳ 2 (Ô thố thông thông vãn bất lưu)
- Đề Trình xử sĩ vân oa đồ
- Trần tình bài 1
- Hạ nhật mạn thành (Vũ quá đình kha trưởng lục âm)
- Mộ xuân tức sự
- Bảo kính cảnh giới bài 9
- Bảo kính cảnh giới bài 43
Nguyễn Trãi không chỉ được biết đến như nhà chính trị, quân sự tài ba mà còn là một trong những nhà thơ kiệt xuất nhất trong nền văn học Việt Nam. Thơ ca ông là sự kết tinh giữa tâm hồn nhân nghĩa, trí tuệ sâu sắc cùng tình yêu thiên nhiên, con người. Những áng thơ của Nguyễn Trãi, dù được sáng tác trong bối cảnh đất nước đầy biến động, vẫn tỏa sáng vẻ đẹp nghệ thuật trường tồn và giá trị nhân văn bất diệt. Trong bài viết sau, hãy cùng VOH điểm qua một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Trãi.
Đôi nét về Đại thi hào Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi (1380 - 1442), hiệu Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương), sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Ông được sinh ra trong một gia đình cả bên nội và bên ngoại đều có truyền thống yêu nước và văn hóa, văn học. Chính điều này đã tạo điều kiện để Nguyễn Trãi được tiếp xúc và thấu hiểu tư tưởng chính trị của Nho giáo.
Cha ông là Nguyễn Phi Khanh từng thi đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ), con rể của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh năm 1400, từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi nhà Minh xâm lược đất nước, Nguyễn Trãi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi làm thủ lĩnh.
Năm 1428, khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, Nguyễn Trãi trở thành một trong những khai quốc công thần của nhà Hậu Lê. Ông thừa lệnh Lê Lợi viết "Bình Ngô đại cáo", thể hiện tinh thần yêu nước mãnh liệt và tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc. Áng Thiên cổ hùng văn này được xem là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước Việt Nam.
Nguyễn Trãi sống trong thời đại xã hội nhiều biến động, loạn lạc khi mâu thuẫn nội bộ trong triều đình phong kiến, đất nước bị giặc ngoại xâm, nhân dân lầm than, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi... Chính bối cảnh này đã định hình ngòi bút hiện thực của ông.
Không chỉ là nhà quân sự thiên tài, Nguyễn Trãi còn là nhà thơ lỗi lạc hiếm có. Các tác phẩm của ông được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, bao gồm:
- Sáng tác viết bằng chữ Hán: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng, Văn loại.
- Sáng tác viết bằng chữ Nôm: Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ viết theo thể Đường luật hoặc Đường luật xen lục ngôn.
- Ngoài sáng tác văn học, Nguyễn Trãi còn để lại cuốn Dư địa chí, một bộ sách địa lý cổ nhất Việt Nam.
Nguyễn Trãi là một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao, nhà văn hoá, nhà văn, nhà thơ tầm cỡ kiệt xuất trong thời phong kiến Việt Nam. Nhưng ông đã phải chịu những oan khiên thảm khốc, khi toàn thể gia đình Nguyễn Trãi và vợ là bà Lễ Nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ bị kết án tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên, vào tháng Tám, năm Nhâm Tuất 1442.
Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu tẩy oan. Khoảng 15 vị Tiến sĩ đã được cử đi tìm kiếm di cảo thơ văn của Nguyễn Trãi còn lưu lạc trong dân gian.
Năm 1980, nhân kỷ niệm 600 năm Ngày sinh của ông, Nguyễn Trãi đã được UNESCO chính thức công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới, nhà quân sự lỗi lạc, nhà chính trị thiên tài.
Những bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Trãi
Những áng thơ văn bất hủ của Nguyễn Trãi được kết tinh từ tài năng và tâm huyết của một bậc đại thi hào. Qua đó phản ánh trí tuệ vượt thời đại, nhân cách lớn lao cùng tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc.
Bình Ngô Đại Cáo (năm 1428)
Phiên âm
Đại thiên hành hoá hoàng thượng nhược viết:
Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư mạc tiên khử bạo.
Duy, ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.
Chí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Ác đảng hoài giang, cánh dĩ mại ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư hoạ khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỷ hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết di.
Khai kim trường tái mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu tắc xúc giao long nhi cang yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điển vật chức thuý cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thuỷ bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
Dư:
Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đới,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thuỳ thập dư niên,
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.
Đồ hồi chi chí,
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiên hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.
Nhiên kỳ:
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Do kỷ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
Dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kỳ.
Tốt năng:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá hôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỷ chi kiến dĩ giá hoạ ư tha nhân,
Tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,
Nản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế truỵ ư Chi Lăng chi dã;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã An chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển tì hưu chi sĩ,
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thuỷ càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu cầm.
Cương thi tái Lượng Giang, Lượng Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thuỷ.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân sở bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lãnh Câu chi huyết chử phiếu, giang thuỷ vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Lưỡng lộ cứu binh ký bất toàn chủng nhi câu bại,
Các thành cùng khấu diệc tướng giải giáp dĩ xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quan.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu,
Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã.
Ô hô!
Nhất nhung đại định,
Hất thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh,
Đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.
Dịch thơ
Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
(Dịch thơ: Ngô Tất Tố)
Hạ quy Lam Sơn kỳ 1 (Mừng về Lam Sơn kỳ 1)
Phiên âm:
Quyền mưu bổn thị dụng trừ gian,
Nhân nghĩa duy trì quốc thế an.
Đài các hữu nhân nho tịch noãn,
Biên thùy vô sự liễu doanh nhàn.
Viễn phương ngọc bạch đồ vương hội,
Trung quốc uy nghi đổ Hán quan.
Sóc tẩm dĩ thanh kình lãng tức,
Nam châu vạn cổ cựu giang san.
Dịch nghĩa:
Quyền mưu vốn là để trừ gian
Nhân nghĩa giữ cho thế nước được yên
Chốn sang trọng có người (công hầu bá tử) tất chiếu nhà nho ấm
Nơi biên thùy không có việc thì doanh trại nhàn
Phương xa dâng ngọc và lụa, vẽ cảnh hội nhà vua
Trung quốc uy nghi được thấy lại quan nhà Hán (xây dựng tốt)
Yêu khí phương bắc đã dẹp xong, sóng gió loạn lạc đã lặng
Đất Nam châu vẫn giữ giang sơn muôn thuở.
Hạ quy Lam Sơn kỳ 2 (Mừng về Lam Sơn kỳ 2)
Phiên âm:
Ức tích Lam Sơn ngoạn Vũ Kinh,
Đương thời chí dĩ tại thương sinh.
Nghĩa kỳ nhất hướng trung nguyên chỉ,
Miếu toán tiên tri đại sự thành.
Nguyệt xuế nhật thành quy đức hoá,
Huỷ thường chuỳ kế thức uy thanh.
Nhất nhung đại định hà thần tốc,
Giáp tẩy cung nang lạc thái bình.
Dịch nghĩa:
Bình sinh đường đời nhiều vất vả quá thể
Vạn việc chỉ nên phó cho trời già
Tấc lưỡi hãy còn, tưởng cũng tự tin được
Cứ một cảnh nghèo như cũ thật đáng thương
Ngày tháng (sáng tối) đi qua vùn vụt khó mà trở lại
Quán khách lạnh lùng, đêm dài như cả một năm
Mười năm đọc sách (học hành) mà nghèo đến tận xương
Trên mâm cơm chỉ có rau mục túc, chỗ ngồi chẳng có chiếu.
Hạ tiệp kỳ 4 (Mừng vua thắng trận kỳ 4)
Phiên âm:
Khi thiên võng thượng vị thiên cao,
Thiên võng khôi khôi cánh mạc đào.
Hộ ngoại trùng sơn không thiết hiểm,
Lâm gian thê điểu bất quy sào.
Man khê lộ viễn vu loan ngự,
Ngọc trướng mưu thâm xuất Hổ thao.
Tứ hải chỉ kim câu thiếp tĩnh,
Dự tri hậu dật bổn tiên lao.
Dịch nghĩa:
Dối Trời lừa vua rồi bảo rằng Trời cao
Lưới Trời lồng lộng khó mà trốn thoát
Núi non trùng điệp dựng ngay trước cửa cũng chẳng được gì
Chim ở ngay trong rừng còn không về tổ được
Khe núi gây khó khăn cho đường xe kiệu loan
Từ trong trướng ngọc đã có mưu lược xuất quân
Bốn bể từ nay sẽ yên tĩnh
Biết trước rằng muốn sau được nhàn tức trước phải nhọc.
Côn Sơn ca
Phiên âm
Côn Sơn hữu tuyền,
Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lý thuý đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung.
Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc.
Vấn quân hà bất quy khứ lai,
Bán sinh trần thổ trường giao cốc?
Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên,
Ẩm thuỷ phạn sơ tùy phận túc.
Quân bất kiến: Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ,
Nguyên Tái hồ tiêu bát bách hộc.
Hựu bất kiến: Bá Di dữ Thúc Tề,
Thú Dương ngạ tự bất thực túc?
Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu,
Diệc các tự cầu kì sở dục.
Nhân sinh bách tuế nội,
Tất cánh đồng thảo mộc.
Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,
Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.
Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,
Tử hậu thuỳ vinh cánh thuỳ nhục.
Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ,
Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.
Dịch thơ
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm.
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?
Muôn chung chín vạc làm gì,
Cơm rau nước lã nên tùy phận thôi.
Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,
Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan.
Lại kia trên núi Thú San,
Di, Tề nhịn đói chẳng màng thóc Chu.
Hai đàng khó sánh hiền ngu,
Đều làm cho thoả được như ý mình.
Trăm năm trong cuộc nhân sinh,
Người như cây cỏ thân hình nát tan.
Hết ưu lạc đến bi hoan,
Tốt tươi khô héo, tuần hoàn đổi thay.
Núi gò đài các đó đây,
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh.
Sào, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn.
(Dịch thơ: Phan Võ - Lê Phước - Đào Phương Bình)
Quy Côn Sơn chu trung tác
Phiên âm:
Quy Côn Sơn chu trung tác
Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình,
Quy tứ dao dao nhật tự tinh.
Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý,
Không tương huyết lệ tẩy tiên doanh.
Binh dư cân phủ ta nan cấm,
Khách lý giang sơn chỉ thử tình.
Uất uất thốn hoài vô nại xứ,
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh.
Dịch nghĩa:
Mười năm phiêu dạt như cỏ bồng cánh bèo
Ý muốn trở về ngày nào cũng nao nao (như cờ dựng trong trí)
Bao lần gửi hồn trong mộng về làng cũ
Mang bằng tưởng tượng huyết lệ về tẩy mộ tổ tiên
Than ôi, sau loạn lạc làm sao cấm cản được vụ búa rìu?
Trong cảnh khách này chỉ có mối tình ấy với giang sơn
Tấc lòng u uất thật khó xử
Song cửa thuyền lay gối mãi đến sáng trời.
Ba tiêu (Cây chuối)
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,
Ðầy buồng lạ, màu thâu đêm.
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu, gượng mở xem.
Thuật hứng bài 24
Công danh đã được hợp về nhàn
Lành dữ âu chi thế nghị khen
Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then
Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.
Thủ vỹ ngâm
Góc thành Nam, lều một gian,
No nước uống, thiếu cơm ăn.
Con đòi trốn, dường ai quyến,
Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn.
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá,
Nhà quen thú thứa ngại nuôi vằn.
Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải,
Góc thành Nam, lều một gian.
Bạch Đằng hải khẩu
Phiên âm:
Sóc phong xuy hải khí lăng lăng,
Khinh khỉ ngâm phàm quá Bạch Đằng.
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.
Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng.
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.
Dịch nghĩa:
Cửa Bạch Đằng
Gió bấc thổi trên biển, khí biển lạnh lùng,
Nhẹ kéo buồm thơ qua cửa Bạch Đằng.
Như cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ, núi chia từng khúc,
Như mũi qua chìm, cây kích gãy, bên bờ lớp lớp chất chồng.
Quan hà hiểm yếu, hai người địch được trăm người, do trời sắp đặt,
Hào kiệt lập công danh, chốn ấy từng là nơi.
Quay đầu xem việc cũ, ôi xong rồi!
Cúi xuống dòng mò bóng, ý không sao nói xiết…
Dịch thơ
Gió Bắc dâng, biển lạnh lùng,
Buồm thơ qua cửa Bạch Đằng nhẹ tênh.
Núi như sấu chặt kình băm,
Giáo chìm kích gãy chất nằm muôn nơi.
Quan hà hiểm yếu do trời,
Công danh hào kiệt một thời lưu danh.
Ngoái xem, việc cũ đã xong,
Đáy sông mò bóng, tình không hết lời.
(Vũ Bình Lục dịch)
Tự thán
Chiếc thuyền lơ lửng bên sông,
Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay.
Chắc chi thiên hạ đời nay,
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao.
Đã buồn về trận mưa rào,
Lại đau về nỗi ào ào gió đông.
Mây trôi nước chảy xuôi dòng,
Chiếc thuyền hờ hững bên sông một mình.
Thu dạ khách cảm (Lữ xá tiêu tiêu tịch tác môn)
Phiên âm:
Lữ xá tiêu tiêu tịch tác môn,
Vi ngâm tụ thủ quá hoàng hôn.
Thu phong lạc diệp ki tình tứ,
Dạ vũ thanh đăng khách mộng hồn.
Loạn hậu phùng nhân phi túc tích,
Sầu trung tống mục ngụ càn khôn.
Đáo đầu vạn sự giai hư huyễn,
Hưu luận Phàm vong dữ Sở tồn.
Dịch nghĩa:
Quán khách tiêu điều treo chiếu làm cửa
Ủ tay vào áo ngâm nga khẽ giọng trong buổi hoàng hôn
Lá rụng trong gió thu gợi tình tứ
Đêm mưa ánh đèn leo lét khiến khách thả hồn vào mộng
Sau loạn chẳng ai là quen cũ
Trong cảnh sầu gửi tầm hồn vào trời đất
Chung quy muôn việc đều là hư ảo cả
Thôi chớ bàn chuyện Phàm mất với Sở còn làm gì.
Ký hữu (Bán sinh thế lộ thán truân chiên)
Phiên âm:
Bán sinh thế lộ thán truân chiên,
Vạn sự duy ưng phó lão thiên.
Thốn thiệt đãn tồn không tự tín,
Nhất hàn như cố diệc kham liên.
Quang âm thúc hốt thời nan tái,
Khách xá thê lương dạ tự niên.
Thập tải độc thư bần đáo cốt,
Bàn duy mục túc, toạ vô chiên.
Dịch nghĩa:
Bình sinh đường đời nhiều vất vả quá thể
Vạn việc chỉ nên phó cho trời già
Tấc lưỡi hãy còn, tưởng cũng tự tin được
Cứ một cảnh nghèo như cũ thật đáng thương
Ngày tháng (sáng tối) đi qua vùn vụt khó mà trở lại
Quán khách lạnh lùng, đêm dài như cả một năm
Mười năm đọc sách (học hành) mà nghèo đến tận xương
Trên mâm cơm chỉ có rau mục túc, chỗ ngồi chẳng có chiếu.
Ký hữu (Loạn hậu thân bằng lạc diệp không)
Phiên âm:
Loạn hậu thân bằng lạc diệp không,
Thiên biên thư tín đoạn thu hồng.
Cố viên quy mộng tam canh vũ,
Lữ xá ngâm hoài tứ bích cùng.
Đỗ lão hà tằng vong Vị Bắc,
Quản Ninh do tự khách Liêu Đông.
Việt Trung cố cựu như tương vấn,
Vị đạo sinh nhai tự chuyển bồng.
Dịch nghĩa:
Sau loạn lạc bà con bạn bè thưa thớt như lá rụng
Bên trời vắng bóng chim hồng mùa thu đưa thư
Suốt ba canh mưa ta mộng về vườn cũ
Ngâm thơ trong quán khách, tiếng dế rộn bốn phía tường
Đỗ lão có bao giờ quên bờ bắc sông Vị?
Quản Ninh còn tự mình làm trú khách Liêu Đông
Giá có ai ở đất Việt Trung xưa hỏi thăm
Xin hãy nói lý do sự sống đổi dời mãi như cỏ bồng.
Quan hải
Phiên âm:
Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền,
Trầm giang thiết toả diệc đồ nhiên.
Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ,
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỷ thiên niên.
Kiền khôn kim cổ vô cùng y,
Khước tại Thương Lang viễn thụ yên.
Dịch nghĩa:
Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển,
Xích sắt cũng được trầm dưới nước để phong toả như thế.
Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nước,
Cậy vào địa thế hiểm trở cũng khó bằng mệnh trời.
Hoạ phúc đều có duyên do, đâu phải chỉ một ngày,
Anh hùng để lại mối hận nghìn năm.
Xưa nay ý trời đất thì vô cùng tận,
Lui về chốn cây cỏ mây trời ở đất Thương Lang xa xôi.
(Bài này nói về Hồ Quý Ly chống Minh giỏi nhưng không được dân ủng hộ, do đấy cuối cùng phải thất bại.)
Đề kiếm
Phiên âm:
Lam Sơn tự tích ngoạ thần long,
Thế sự huyền tri tại chưởng trung.
Đại nhiệm hữu quy thiên khải thánh,
Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong.
Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ,
Kim quỹ chung tàng vạn thế công.
Chỉnh đốn càn khôn tòng thử liễu,
Thế gian na cánh sổ anh hùng.
Dịch nghĩa:
Từ xưa khi rồng thiêng còn nằm ở Lam Sơn
Mà việc đời huyền nhiệm đã biết rõ ở trong lòng bàn tay
Khi gánh nặng trao về một người thì trời báo cho thánh nhân biết
Khi đời thịnh được gặp thì hổ sinh ra gió
Đã rửa sạch nỗi nhục ngàn năm của thù nước
Cuối cùng đã cất giữ cái công muôn thuở trong rương vàng
Từ nay việc chỉnh đốn đất trời đã xong
Trên đời rút cuộc có được mấy người anh hùng như thế?
Thính vũ (Nghe mưa)
Phiên âm:
Tịch mịch u trai lý,
Chung tiêu thính vũ thanh.
Tiêu tao kinh khách chẩm!
Điểm trích sổ tàn canh.
Cách trúc xao song mật,
Hoà chung nhập mộng thanh.
Ngâm dư hồn bất mị,
Đoạn tục đáo thiên minh.
Dịch nghĩa:
Vắng vẻ trong phòng tối tăm,
Suốt đêm nghe tiếng trời mưa.
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách,
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ,
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm rồi vẫn không ngủ được,
Nghe đứt nối cho đến trời bình minh.
Hoạ Hương tiên sinh vận giản chư đồng chí
Phiên âm:
Sầu lai đốt đốt mạn thư không,
Thiên địa vô cùng thán chuyển bồng.
Thế sự hôi tâm đầu hướng bạch,
Suy nhan tá tửu vựng sinh hồng.
Lãm huy nghĩ học minh dương phụng,
Viễn hại chung vi tị dặc hồng.
Luân lạc thiên nhai câu thị khách,
Niên lai xuất xứ lược tương đồng.
Dịch nghĩa:
Chao ôi (cha cha) mối sầu đến viết lên đầy trời!
Khó (cho ta) là di chuyển như ngọn cỏ bồng trong trời đất vô biên này
Cuộc đời khiến lòng người nguội lạnh như tro tàn, tóc bạc dần
Thần sắc kém, mượn rượu để làm ửng đỏ lên
Nhìn ánh sáng muốn bắt chước chim phượng hót trong ánh dương
Rốt cuộc làm chim hồng tránh tên để xa nguy hại
(Chúng ta) đều là khách luân lạc ở chân trời
Lâu nay xuất hay xử cũng giống nhau.
Mạn hứng kỳ 2 (Ô thố thông thông vãn bất lưu)
Phiên âm:
Ô thố thông thông vãn bất lưu,
Hồi đầu vạn sự tổng nghi hưu.
Không hoa huyễn nhãn miên tiêu lộc,
Tục cảnh kinh tâm suyễn nguyệt ngưu.
Ải ốc thê thân kham độ lão,
Thương sinh tại niệm độc tiên ưu.
Bành thương tang cốc đô hưu luận,
Cổ vãng kim lai lạc nhất khưu (khâu).
Dịch nghĩa:
Ngày và đêm qua vùn vụt không ngừng lại
Quay nhìn mọi việc thấy đều nên ngưng là vừa
Hoa mắt tưởng chiêm bao thấy lá chuối giấu con hưu
Nhìn cảnh tục lòng sợ như trâu sợ trăng thở phì phào
Mái nhà nhỏ nương mình có thể qua tuổi già
Vì dân đen luôn luôn để dạ lo trước cho họ
Sống lâu hay chết yểu (như Tang và Cốc) khỏi bàn luận làm gì
Xưa nay xem như loài chồn ở cùng một gò cả.
Đề Trình xử sĩ vân oa đồ
Phiên âm:
Giai khách tương phùng nhật bão cầm,
Cố sơn quy khứ hứng hà thâm.
Hương phù ngoã đỉnh phong sinh thụ,
Nguyệt chiếu đài ky trúc mãn lâm.
Tẩy tận trần khâm hoa ngoại mính,
Hoán hồi ngọ mộng chẩm biên cầm.
Nhật trường ẩn kỷ vong ngôn xứ,
Nhân dữ bạch vân thuỳ hữu tâm.
Dịch nghĩa:
Khách quý gặp nhau ôm đàn gảy suốt ngày
Trở về núi cũ hứng thú biết bao!
Hương bốc lên ở đỉnh sành, gió rung cây
Trăng chiếu xuống ghềnh rêu, trúc đầy rừng
Muốn tẩy sạch lòng trần có đọt trà ngoài chỗ hoa viên
Để gọi tỉnh giấc mộng ban trưa, có tiếng chim bên gối
Suốt ngày tựa ghế quên cả nói
Thử hỏi giữa người và mây trắng kia ai là có tâm tình?
Trần tình bài 1
Từ ngày gặp hội phong vân,
Bổ báo chưa hề đặng mỗ phân.
Gánh khôn đương quyền tướng phủ,
Lui ngõ được đất nho thần.
Ước bề trả ơn minh chúa,
Hết khoẻ phù đạo thánh nhân.
Quốc phú binh cường chăng có chước,
Bằng tôi nào thửa ích chưng dân.
Hạ nhật mạn thành (Vũ quá đình kha trưởng lục âm)
Phiên âm:
Vũ quá đình kha trưởng lục âm,
Thiền thanh cung chuỷ tấu Ngu cầm.
Song tiền hoàng quyển công môi thuỵ,
Hộ ngoại thanh sơn cố sách ngâm.
Trú tĩnh càn khôn khoan đạo tứ,
Nhân gian danh lợi tỉnh sơ tâm.
Hồi đầu tam thập niên tiền sự,
Mộng lý du du cánh mạc tầm.
Dịch nghĩa:
Mưa tạnh, cành cây ngoài sân thêm sắc xanh
Tiếng ve ngâm như tấu nhạc vua Ngu Thuấn
Trước song cửa cuốn sách vàng ru giấc ngủ
Ngoài kia núi non xanh biếc giục ngâm thơ
Ngày lặng, trong trời đất gieo ý đạo
Người nhàn đã giác ngộ về lòng ham danh lợi buổi đầu
hồi tưởng lại công việc ba mươi năm về trước
Trong mộng mịt mù khó thể tìm lại được.
Mộ xuân tức sự
Phiên âm:
Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai.
Đỗ Vũ thanh trung xuân hướng lão,
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.
Dịch nghĩa:
Nhàn rỗi suốt ngày đóng cửa phòng sách,
Ngoài cửa vắng khách tục đến.
Trong tiếng đỗ vũ kêu ý chừng xuân đã muộn,
Cả một sân hoa xoan nở dưới mưa phùn.
Dịch thơ:
Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn
Khách tục không ai bén mảng gần
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Ðầy sân mưa bụi nở hoa xoan.
(Khương Hữu Dụng dịch)
Bảo kính cảnh giới bài 9
Trần trần mựa cậy những ta lành,
Phúc hoạ tình cờ xẩy chửa đành.
Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn,
Lòng người quanh nữa nước non quanh.
Chẳng ngừa nhỏ âu nên lớn,
Nếu có sâu thì bỏ canh.
Ở thế an nhàn chăng có sự,
Ngàn muôn tốn nhượng chớ đua tranh.
Bảo kính cảnh giới bài 43
Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
Thơ Nguyễn Trãi không chỉ là tiếng nói của một tâm hồn lớn mà còn là ngọn đuốc soi đường cho hậu thế. Cuộc đời và di sản của ông đã minh chứng cho tinh thần yêu nước, lòng nhân nghĩa và trí tuệ vượt thời đại, trở thành người trí thức tiêu biểu cho khí phách và tinh hoa dân tộc.
Đừng quên cập nhật liên tục những bài viết mới nhất, hấp dẫn nhất tại voh.com.vn - Sống đẹp.