Tiêu điểm: Nhân Humanity
Chờ...

24 bài thơ về lòng yêu nước hào sảng, khí thế của các thi sĩ Việt Nam

VOH - Yêu nước là một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Qua những áng thơ về lòng yêu nước của các thi sĩ, ta cảm nhận được tinh thần ấy một lần nữa lại sục sôi, rạo rực trong lòng.
Mục lục
  1. Thơ về lòng yêu nước thời trung đại
    1. Sông núi nước Nam – Lý Thường Kiệt (năm 981)
    2. Tụng giá hoàn kinh sư – Trần Quang Khải (1285)
    3. Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi (năm 1428)
    4. Thiên Trường vãn vọng – Trần Nhân Tông (năm ?)
    5. Côn Sơn ca – Nguyễn Trãi (năm ?)
    6. Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn (năm 1741)
  2. Thơ lòng yêu nước thời kháng chiến
    1. Đất nước – Nguyễn Đình Thi (năm 1955)
    2. Người đi tìm hình của nước – Chế Lan Viên (năm 1960)
    3. Hôn mảnh đất quê hương – Thu Bồn (năm 1962)
    4. Đừng quên – Chế Lan Viên (năm 1964)
    5. Phà đêm – Hoàng Trung Thông (năm 1965)
    6. Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi – Nam Hà (năm 1966)
    7. Bài thơ của một người yêu nước mình - Trần Vàng Sao (năm 1967)
    8. Gửi em cô thanh niên xung phong – Phạm Tiến Duật (năm 1968)
    9. Tổ quốc – Huy Cận (1969)
    10. Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm (năm 1971)
    11. Lá đỏ - Nguyễn Đình Thi (năm 1974)
  3. Những bài thơ về lòng yêu nước trong thời bình
    1. Khoảng lặng yên Tháng Tư – Ngô Thế Oanh (năm 1975)
    2. Những người đi tới biển – Thanh Thảo (năm 1977)
    3. Nghĩa trang trong rừng đước – Nguyễn Duy (năm 1977)
    4. Chút thơ tình người lính biển – Trần Đăng Khoa (năm 1981)
    5. Bài học đầu cho con – Đỗ Trung Quân (đăng báo Khăn quàng đỏ năm 1986)
    6. Chủ nhật không bình yên – Nguyễn Trọng Tạo (năm 2011)
    7. Mê Linh đổi mới – Chu Cường (năm 2013)
    8. Lòng yêu nước – Yêu Thoáng Qua (năm 2017)

Thơ ca chính là chiếc nôi nuôi dưỡng, gột rửa tâm hồn con người. Với những vần thơ về lòng yêu nước ngọt ngào, sâu lắng nhưng không kém phần hào hùng, mạnh mẽ đã đưa chúng ta lạc vào lịch sử oai hùng của dân tộc. Chứng kiến được sự hy sinh thầm lặng, cao cả cho đất nước của những chàng trai, cô gái ở độ tuổi xuân thì. 

Thơ về lòng yêu nước thời trung đại

Văn học trung đại được ví như một vụ mùa bội thu. Đó là nơi các hồn thơ lớn của dân tộc Việt Nam bày tỏ tấm lòng yêu nước sâu sắc của mình. Họ nguyện chiến đấu để bảo vệ mảnh đất thân thương ấy, gian khổ mà vinh quang. Những bài thơ trung đại về lòng yêu nước đã khơi gợi, đánh thức được niềm tự hào vô bờ bến của thế hệ mai sau dành cho sự hy sinh thầm lặng của cha ông ta. 

Sông núi nước Nam – Lý Thường Kiệt (năm 981)

tho-ve-long-yeu-nuoc-voh-0
 
Phiên âm

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Dịch thơ:

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng mày nhất định sẽ tan vỡ.

(Dịch thơ: Lê Phước - Nam Trân)

Tụng giá hoàn kinh sư – Trần Quang Khải (1285)

Phiên âm

Đoạt sáo Chương Dương độ,

Cầm Hồ Hàm Tử quan.

Thái bình tu trí lực,

Vạn cổ thử giang san.

Dịch thơ:

Chương Dương cướp giáo giặc

Hàm Tử bắt quân thù

Thái bình nên gắng sức

Non nước ấy ngàn thu

(Dịch thơ: Trần Trọng Kim)

Bình Ngô đại cáo  - Nguyễn Trãi (năm 1428)

Phiên âm

Đại thiên hành hoá hoàng thượng nhược viết:

 

Cái văn:

Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,

Điếu phạt chi sư mạc tiên khử bạo.

Duy, ngã Đại Việt chi quốc,

Thực vi văn hiến chi bang.

Sơn xuyên chi phong vực ký thù,

Nam bắc chi phong tục diệc dị.

Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc,

Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.

Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,

Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.

Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,

Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.

Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,

Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.

Kê chư vãng cổ,

Quyết hữu minh trưng.

Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.

Chí sử nhân tâm chi oán bạn.

Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;

Ác đảng hoài giang, cánh dĩ mại ngã quốc.

Hân thương sinh ư ngược diệm,

Hãm xích tử ư hoạ khanh.

Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;

Liên binh kết hấn nẫm ác đãi nhị thập niên.

Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỷ hồ dục tức;

Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết di.

Khai kim trường tái mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,

Thái minh châu tắc xúc giao long nhi cang yêu thộn hải.

Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,

Điển vật chức thuý cầm chi võng la.

Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,

Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.

Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;

Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.

Châu lý chi chinh dao trọng khốn,

Lư diêm chi trữ trục giai không.

Quyết Đông Hải chi thuỷ bất túc dĩ trạc kỳ ô,

Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.

Thần dân chi sở cộng phẫn,

Thiên địa chi sở bất dung.

 

Dư:

Phấn tích Lam Sơn,

Thê thân hoang dã.

Niệm thế thù khởi khả cộng đới,

Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.

Thống tâm tật thủ giả thuỳ thập dư niên,

Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.

Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,

Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.

Đồ hồi chi chí,

Ngộ mị bất vong.

Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,

Chính tặc thế phương trương chi nhật.

 

Nại dĩ:

Nhân tài thu diệp,

Tuấn kiệt thần tinh.

Bôn tẩu tiên hậu giả ký phạp kỳ nhân,

Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.

Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;

Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.

 

Nhiên kỳ:

Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,

Do kỷ chi thành thậm ư chửng nịch.

Phẫn hung đồ chi vị diệt,

Niệm quốc bộ chi tao truân.

Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,

Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.

Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,

Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.

Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;

Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.

Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;

Dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

 

Tốt năng:

Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,

Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.

Bồ Đằng chi đình khu điện xế,

Trà Lân chi trúc phá hôi phi.

Sĩ khí dĩ chi ích tăng,

Quân thanh dĩ chi đại chấn.

Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,

Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.

Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;

Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.

Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;

Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.

Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;

Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.

Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,

Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.

Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;

Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.

Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,

Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.

Chấp nhất kỷ chi kiến dĩ giá hoạ ư tha nhân,

Tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ.

Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;

Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.

Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,

Nản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.

Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,

Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.

Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế truỵ ư Chi Lăng chi dã;

Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã An chi sơn.

Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,

Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.

Ngã toại nghênh nhận nhi giải,

Bỉ tự đảo qua tương công.

Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,

Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.

Viên tuyển tì hưu chi sĩ,

Thân mệnh trảo nha chi thần.

Ẩm tượng nhi hà thuỷ càn,

Ma đao nhi sơn thạch khuyết.

Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,

Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.

Quyết hội nghĩ ư băng đê,

Chấn cương phong ư cảo diệp.

Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,

Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu cầm.

Cương thi tái Lượng Giang, Lượng Sơn chi đồ,

Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thuỷ.

Phong vân vị chi biến sắc,

Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;

Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân sở bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.

Lãnh Câu chi huyết chử phiếu, giang thuỷ vị chi ô yết;

Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.

Lưỡng lộ cứu binh ký bất toàn chủng nhi câu bại,

Các thành cùng khấu diệc tướng giải giáp dĩ xuất hàng.

Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;

Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.

Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;

Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.

Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;

Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.

Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,

Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.

Xã tắc dĩ chi điện an,

Sơn xuyên dĩ chi cải quan.

Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,

Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.

Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,

Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.

Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu,

Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã.

 

Ô hô!

Nhất nhung đại định,

Hất thành vô cạnh chi công;

Tứ hải vĩnh thanh,

Đản bố duy tân chi cáo.

 

Bá cáo hà nhĩ,

Hàm sử văn tri.

Dịch thơ:

Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.

 

Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác;

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có.

 

Cho nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại;

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.

 

Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.

Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?

Nặng nề những nỗi phu phen

Tan tác cả nghề canh cửi.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!

Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?

 

Ta đây:

Núi Lam sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh.

 

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu,

Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,

Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,

Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,

Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

 

Thế mà:

Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.

Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.

Phần vì giận quân thù ngang dọc,

Phần vì lo vận nước khó khăn,

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

Lúc Khôi Huyện quân không một đội.

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng trí khắc phục gian nan.

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.

Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

 

Trọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,

Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.

Sĩ khí đã hăng

Quân thanh càng mạnh.

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.

Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,

Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu

Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.

Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy

Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.

Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.

Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.

Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,

Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

 

Bởi thế:

Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng

Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy

Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại

Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.

Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong

Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực

Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong

Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.

Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá

Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau

Lại thêm quân bốn mặt vây thành

Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc

Sĩ tốt kén người hùng hổ

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông.

Cơn gió to trút sạch lá khô,

Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.

Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường

Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước

Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,

Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ

Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!

Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.

Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc

Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.

Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng

Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng

Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh

Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

Chẳng những mưu kế kì diệu

Cũng là chưa thấy xưa nay

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Càn khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu

Muôn thuở nền thái bình vững chắc

Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

 

Than ôi!

Một cỗ nhung y chiến thắng,

Nên công oanh liệt ngàn năm

Bốn phương biển cả thanh bình,

Ban chiếu duy tân khắp chốn.

 

Xa gần bá cáo,

Ai nấy đều hay.

Lộ tòng kim dạ bạch,

Nguyệt thị cố hương minh.

(Dịch thơ: Ngô Tất Tố)

Thiên Trường vãn vọng – Trần Nhân Tông (năm ?)

tho-ve-long-yeu-nuoc-voh-1
 
Phiên âm

Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô, bán hữu tịch dương biên.

Mục đồng địch lý quy ngưu tận,

Bạch lộ song song phi hạ điền.

Dịch thơ:

Trước xóm sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều man mác có dường không.

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

(Dịch thơ: Ngô Tất Tố)

1.5 Côn Sơn ca – Nguyễn Trãi (năm ?)

Phiên âm

Côn Sơn hữu tuyền,

Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên,

Ngô dĩ vi cầm huyền.

Côn Sơn hữu thạch,

Vũ tẩy đài phô bích,

Ngô dĩ vi đạm tịch.

Nham trung hữu tùng,

Vạn lý thuý đồng đồng,

Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung.

Lâm trung hữu trúc,

Thiên mẫu ấn hàn lục,

Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc.

Vấn quân hà bất quy khứ lai,

Bán sinh trần thổ trường giao cốc?

Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên,

Ẩm thuỷ phạn sơ tùy phận túc.

Quân bất kiến: Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ,

Nguyên Tái hồ tiêu bát bách hộc.

Hựu bất kiến: Bá Di dữ Thúc Tề,

Thú Dương ngạ tự bất thực túc?

Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu,

Diệc các tự cầu kì sở dục.

Nhân sinh bách tuế nội,

Tất cánh đồng thảo mộc.

Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,

Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.

Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,

Tử hậu thuỳ vinh cánh thuỳ nhục.

Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ,

Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.

Dịch thơ:

Côn Sơn suối chảy rì rầm,

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.

Côn Sơn có đá rêu phơi,

Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm.

Trong ghềnh thông mọc như nêm,

Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.

Trong rừng có bóng trúc râm,

Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.

Về đi sao chẳng sớm toan,

Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?

Muôn chung chín vạc làm gì,

Cơm rau nước lã nên tùy phận thôi.

Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,

Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan.

Lại kia trên núi Thú San,

Di, Tề nhịn đói chẳng màng thóc Chu.

Hai đàng khó sánh hiền ngu,

Đều làm cho thoả được như ý mình.

Trăm năm trong cuộc nhân sinh,

Người như cây cỏ thân hình nát tan.

Hết ưu lạc đến bi hoan,

Tốt tươi khô héo, tuần hoàn đổi thay.

Núi gò đài các đó đây,

Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh.

Sào, Do bằng có tái sinh,

Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn.

(Dịch thơ: Phan Võ - Lê Phước - Đào Phương Bình)

Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn (năm 1741)

Phiên âm

Thiên địa phong trần

Hồng nhan đa truân

Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân

Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt

Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân

Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch

Bán dạ phi hịch truyền tướng quân

Thanh bình tam bách niên thiên hạ

Tùng thử nhung y thuộc vũ thần

Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát

Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt

Cung tiễn hề tại yêu

Thê noa hề biệt khuyết

Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu

Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán

Hữu oán hề phân huề

Hữu sầu hề khế khoát

Lương nhân nhị thập Ngô môn hào

Đầu bút nghiên hề sự cung đao

Trực bả liên thành hiến minh thánh

Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu

Trượng phu thiên lý chí mã cách

Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao

Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến

Tây phong minh tiên xuất Vị kiều

Vị kiều đầu thanh thuỷ câu

Thanh thuỷ biên thanh thảo đồ

Tống quân xứ hề tâm du du

Quân đăng đồ hề thiếp hận bất như câu

Quân lâm lưu hề thiếp hận bất như chu

Thanh thanh hữu lưu thuỷ

Bất tẩy thiếp tâm sầu

Thanh thanh hữu phương thảo

bất vong thiếp tâm ưu

Ngữ phục ngữ hề chấp quân thủ

Bộ nhất bộ hề khiên quân nhu

Thiếp tâm tùy quân tự minh nguyệt

Quân tâm vạn lý Thiên Sơn tiễn

Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền

Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt

Vân tùy Giới Tử liệp Lâu Lan

Tiếu hướng Man Khê đàm Mã Viện

Quân xuyên trang phục hồng như hà

Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết

Kiêu mã hề loan linh

Chinh cổ hề nhân hành

Tu du trung hề đối diện

Khoảnh khắc lý hề phân trình

Phân trình hề hà lương

Bồi hồi hề lộ bàng

Lộ bàng nhất vọng hề bái ương ương

Tiền xa hề Bắc Tế Liễu,

Hậu kỵ hề Tây Trường Dương

Kỵ xa tương ủng quân lâm tái

Dương liễu na tri thiếp đoạn trường

Khứ khứ lạc mai thanh tiệm viễn

Hành hành chinh bái sắc hà mang

Vọng vân khứ hề lang biệt thiếp

Vọng sơn quy hề thiếp tư lang.

Lang khứ trình hề mông vũ ngoại

Thiếp quy xứ hề tạc dạ phòng

Quy khứ lưỡng hồi cố

Vân thanh hề sơn thương

Lang cố thiếp hề Hàm Dương

Thiếp cố lang hề Tiêu Tương

Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ

Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang

Tương cố bất tương kiến

Thanh thanh mạch thượng tang

Mạch thượng tang mạch thượng tang

Thiếp ý quân tâm thuỳ đoản trường

Tự tòng biệt hậu phong sa lũng

Minh nguyệt tri quân hà xứ túc

Cổ lai chinh chiến trường

Vạn lý vô nhân ốc

Phong ngao ngao hề đả đắc nhân nhan tiều

Thuỷ thâm thâm hề khiếp đắc mã đề súc

Thú phu chẩm cổ ngọa Long sa

Chiến sĩ bão yên miên hổ lục

Kim triêu Hán há Bạch Đăng thành

Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc

Thanh Hải khúc thanh sơn cao phục đê

Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục

Thanh sơn thượng tuyết mông đầu

Thanh khê hạ thuỷ một phúc

Khả liên đa thiểu thiết y nhân

Tư quy đương thử sầu nhan xúc

Cẩm trướng quân vương tri dã vô

Gian nan thuỳ vị họa chinh phu

Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ

Tiêu Quan giác hãn hải ngung.

Sương thôn vũ điếm

Hổ lạc xà khu

Phong xan lộ túc

Tuyết hĩnh băng tu

Đăng cao vọng vân sắc

An phục bất sinh sầu

Tự tòng biệt hậu đông nam kiếu

Đông nam tri quân chiến hà đạo

Cổ lai chinh chiến nhân

Tính mệnh khinh như thảo

Phong nhận hạ ôn ôn hiệp khoáng chủ ân thâm

Thời khắc trung lịch lịch hoành qua tráng sĩ yểu

Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang

Phì thuỷ tân phần phong niểu niểu

Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn

Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo

Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh

Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu

Khả liên tranh đấu cựu giang sơn

Hành nhân quá thử tình đa thiểu

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn

Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban

Liệu tưởng lương nhân trì sính ngoại

Tam xích kiếm nhất nhung yên

Thu phong sa thảo

Minh nguyệt quan sơn

Mã đầu minh đích

Thành thượng duyên can

Công danh bách mang lý

Lao khổ vị ưng nhàn

Lao dữ nhàn thuỳ dữ ngôn

Quân tại thiên nhai, thiếp ỷ môn

Ỷ môn cố thiếp kim sinh phận

Thiên nhai khởi quân bình sinh hồn

Tự tín tương tuỳ ngư thuỷ bạn

Na kham tương cách thuỷ vân thôn

Thiếp thân bất tưởng vi chinh phụ

Quân thân khởi học vi vương tôn

Hà sự giang Nam dữ giang Bắc

Linh nhân sầu hiểu cánh sầu hôn

Nhất cá thị phong lưu thiếu niên khách

Nhất cá thị thâm khuê thiếu niên hôn

Khả kham lưỡng niên thiếu

Thiên lý các hàn huyên

Ức tích dữ quân tương biệt thời

Liễu điều do vị chuyển hoàng ly

Vấn quân hà nhật quy

Quân ước đỗ quyên đề

Đỗ quyên dĩ trục hoàng ly lão

Thanh Liễu lâu tiền ngữ ý nhi

Ức tích dữ quân tương biệt trung

Tuyết mai do vị thức Ðông phong,

Vấn quân hà nhật quy

Quân chỉ đào hoa hồng

Đào hoa dĩ bạn Ðông phong khứ

Lão mai giang thượng hựu phù dung

Dữ ngã ước hà sở

Nãi ước Lũng Tây sầm

Nhật trung hề bất lai

Trụy diệp đâu ngã trâm

Trữ lập không thế khấp

Hoang thôn huyên ngọ cầm

Dữ ngã ước hà sở

Nãi ước Hán Dương kiều

Nhật vãn hề bất lai

Cốc phong xuy ngã bào

Trữ lập không thế khấp

Hàn giang khởi mộ trào

Tích niên ký tín khuyến quân hồi

Kim niên ký tín khuyến quân lai

Tín lai nhân vị lai

Dương hoa linh lạc uỷ thương đài

Thương đài thương đài hựu thương đài

Nhất bộ nhàn đình bách cảm thôi

Tích niên hồi thư đính thiếp kỳ

Kim niên hồi thư đính thiếp quy

Thư quy nhân vị quy

Sa song tịch mịch chuyển tà huy

Tà huy tà huy hựu tà huy

Thập ước giai kỳ cửu độ vi

Thí tương khứ nhật tùng đầu sổ

Bất giác hà tiền dĩ tam chú

Tối khổ thị liên niên tử tái nhân

Tối khổ thị thiên lý hoàng hoa thú

Hoàng hoa thú thuỳ vô đường thượng thân

Tử tái nhân thuỳ vô khuê trung phụ

Hữu thân an khả tạm tương ly

Hữu phụ an năng cửu tương phụ

Quân hữu lão thân mấn như sương

Quân hữu nhi lang niên thả nhụ

Lão thân hề ỷ môn

Nhi lang hề đãi bộ

Cung thân xan hề thiếp vi nam

Khoá tử thư hề thiếp vi phụ

Cung thân khóa tử thử nhất thân

Thương thiếp tư quân kim kỷ độ

Tư quân tạc nhật hề dĩ quá

Tư quân kim niên hề hựu mộ

Quân yêm lưu nhị niên tam niên cánh tứ niên

Thiếp tình hoài bách lũ thiên lũ hoàn vạn lũ

An đắc tại quân biên

Tố thiếp trung trường khổ

Thiếp hữu Hán cung thoa

Tằng thị giá thời tương tống lai

Bằng thuỳ ký quân tử

Biểu thiếp tương tư hoài

Thiếp hữu Tần lâu kính

Tằng dữ lang sơ tương đối ảnh

Bằng thuỳ ký quân tử

Chiếu thiếp kim cô lánh

Thiếp hữu câu chỉ ngân

Thủ trung thời tương thân

Bằng thuỳ ký quân tử

Vi vật ngụ ân cần

Thiếp hữu tao đầu ngọc

Anh nhi niên sở lộng

Bằng thuỳ ký quân tử

Tha hương hạnh trân trọng

Tích niên âm tín hữu lai thời

Kim niên âm hy tín diệc hy

Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch

Văn sương mạn tự chế miên y

Tây phong dục ký vô hồng tiện

Thiên ngoại liên y tuyết vũ thuỳ

Tuyết hàn y hề hổ trướng

Vũ lãnh y hề lang vi

Hàn lãnh ban ban khổ

Thiên ngoại khả liên y

Cẩm tự đề thi phong cánh triển

Kim tiền vấn bốc tín hoàn nghi

Kỷ độ hoàng hôn thời trùng hiên nhân độc lập

Kỷ hồi minh nguyệt dạ đơn chẩm mấn tà khi

Bất quan trầm dữ hàm hôn hôn nhân tự tuý

Bất quan ngu dữ nọa mộng mộng ý như si

Trâm tà uỷ đoả bồng vô nại

Quần thối nhu yêu sấu bất chi

Trú trầm trầm ngọ viện hành như truỵ

Tịch tiêu tiêu tương liêm quyển hựu thuỳ

Liêm ngoại khuy nhật xuất chi đầu vô thước báo

Liêm trung tọa dạ lai tâm sự chỉ đăng tri

Đăng tri nhược vô tri

Thiếp bi chỉ tự bi

Bi hựu bi hề cánh vô ngôn

Đăng hoa nhân ảnh tổng kham liên

Y ốc kê thanh thông ngũ dạ

Phi phất hoè âm độ bát chuyên

Sầu tự hải

Khắc như niên

Cưỡng nhiên hương hoa hồn tiêu đàn chú hạ

Cưỡng lâm kính ngọc cân truỵ lăng hoa tiền

Cưỡng viện cầm chỉ hạ kinh đình loan phượng trụ

Cưỡng điều sắt khúc trung bi yết uyên ương huyền

Thử ý xuân phong nhược khẳng truyền

Thiên kim tá lực ký Yên Nhiên

Yên Nhiên vị năng truyền

Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên

Thiên viễn vị dị thông

Ức quân du du hề tứ hà cùng

Hoài nhân xứ thương tâm hung

Thụ diệp thanh sương lý

Cùng thanh tế vũ trung

Sương phủ tàn hề dương liễu

Vũ cứ tổn hề ngô đồng

Điểu phản cao thung

Lộ há đê tùng

Hàn viên hậu trùng

Viễn tự hiểu chung

Tất suất sổ thanh vũ

Ba tiêu nhất viện phong

Phong liệt chỉ song xuyên trướng khích

Nguyệt di hoa ảnh thướng liêm lung

Hoa tiền nguyệt chiếu nguyệt tự bạch

Nguyệt hạ hoa khai hoa tự hồng

Nguyệt hoa hoa nguyệt hề ảnh trùng trùng

Hoa tiền nguyệt hạ hề tâm xung xung.

Thiên ban lãn vạn sự dung

Dung nữ công cẩm trục sỉ phao uyên đối ngẫu

Dung phụ xảo kim châm tu thích điệp thư hùng

Dung trang đối hiểu không thi phấn

Dung ngữ chung triêu muộn ỷ song

Ỷ song ỷ song phục ỷ song

Lang quân khứ hề thuỳ vi dung

Thùy vi dung hề không bàn hoàn

Lang quân khứ hề cách trùng quan

Hà thí Thiên đế tôn lãnh lạc khấp Ngân Chử

Hà thí Hằng Nga phụ thê lương tọa Quảng Hàn

Tạ sầu hề vi chẩm

Chử muộn hề vi xan

Dục tương tửu chế sầu sầu trọng tửu vô lực

Dục tương hoa giải muộn muộn áp hoa vô nhan

Sầu muộn tổng vi sầu muộn ngộ

Muộn sầu hóa tác cửu tuyền than

Thí quỳnh sanh hề bất thành hưởng

Bão ngân tranh hề bất nhẫn đàn

Tư viễn tái hề hành lộ nan

Niệm chinh phu hề nang tác đơn

Quyên thanh đề lạc quan tình lệ

Tiều cổ xao tàn đái bại can

Bất thăng tiều tụy hình hài nhuyễn

Thủy giác khuê ly tư vị toan

Tư vị toan hề toan cánh tân

Toan tân đoan đích vị lương nhân

Vị lương nhân hề song thiếp lệ

Vị lương nhân hề chích thiếp thân

Thiếp thân bất đáo quân chinh trướng

Thiếp lệ bất đáo quân chinh cân

Duy hữu mộng hồn vô bất đáo

Tầm quân dạ dạ đáo giang tân

Tầm quân hề Dương Đài lộ

Hội quân hề Tương thuỷ tân

Ký đắc kỷ phiên hoan hội xứ

Vô phi nhất chẩm mộng trung xuân.

Thử thân phản hận bất như mộng

Lũng Thuỷ, Hàm Quan dữ tử thân

Mộng khứ mỗi tăng kinh cánh đoạn

Mộng hồi hựu lự huyễn phi chân

Duy hữu thốn tâm chân bất đoạn

Vị thường khoảnh khắc thiểu ly quân

Tâm bất ly quân vị kiến quân,

Bằng cao kỷ độ vọng chinh luân

Vọng quân hà sở kiến

Giang châu mãn bạch tần

Yên thảo phi thanh lũ

Tần tang nhiễm lục vân

Nam lai tỉnh ấp bán binh trần

Lạc nhật bình sa lộ nhất quần

Vọng quân hà sở kiến

Quan lộ đoản trường đình

Vân gian Ngô thọ ám

Thiên tế Thục sơn thanh

Bắc lai hoà thử bán hoang thành

Vi vũ giang lâu địch nhất thanh

Vọng quân hà sở kiến

Không sơn diệp tố đôi

Tự phi thanh dã trĩ

Tự vũ cách giang mai

Đông khứ yên lam thảm bất khai

Tây phong phiêu bạc điểu thanh ai

Vọng quân hà sở kiến

Hà thủy khúc như câu

Trường không sổ điểm nhạn,

Viễn phố nhất quy châu

Tây khứ tùng thu tiếp đoạn vu

Hành nhân vi một cách thương châu

Vọng tận thiên đầu hựu địa đầu

Kỷ nhật đăng lâu cánh há lâu

Đống vân trở tận tương tư nhãn

Hà xứ Ngọc quan chinh chiến tưu.

Hận vô trường phòng súc địa thuật

Hận vô tiên tử trịch cân phù

Hữu tâm thành hóa thạch

Vô lệ khả đăng lâu

Hồi thủ trường đề dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu.

Bất thức ly gia thiên lý ngoại

Quân tâm hữu tự thiếp tâm phầu

Quân tâm thảng dữ thiếp tâm tự

Thiếp diệc ư quân hà oán vưu

Thiếp tâm như hoa thường hướng dương

Chỉ phạ quân tâm như lưu quang

Lưu quang nhất khứ bất phục chiếu

Hoa vị lưu quang hoàng hựu hoàng

Hoa hoàng cánh hướng thuỳ biên tiếu

Lưu quang bất khẳng nhất hồi chiếu

Hoàng hoa khước vi lưu quang lão

Hoàng hoa lão hề lạc mãn tường.

Hoa lạc như kim kinh kỷ sương

Đình lan hề dĩ trích

Giang tảo hề hựu phương

Nhiếp y bộ tiền đường

Ngưỡng mục quan thiên chương

Tiêm vân thời phảng phất

Bắc đẩu hốt đê ngang

Hà thuỷ phiên minh diệt

Sâm triền sạ hiện tàng

Nguyệt chiếu hề ngã sàng

Phong xuy hề ngã tường

Ngọc nhan tuỳ niên tước

Trượng phu do tha phương

Tích vi hình dữ ảnh

Kim vi Sâm dữ Thương

Quân biên vân ủng thanh ty kỵ

Thiếp xứ đài sinh Hưởng điệp lang

Lang nội xuân phong nhật tương yết

Khả liên ngộ tận lương thời tiết

Lương thời tiết Diêu hoàng Nguỵ tử giá Ðông phong

Lương thời tiết Chức nữ Ngưu lang hội minh nguyệt

Tạc nhật vị kê Tây gia nương

Kim niên dĩ quy Ðông lân thiến

Khả linh thố thủ nhất không phòng

Niên niên ngộ tận lương thời tiết

Lương thời tiết hề hốt như thoa

Nhân thế thanh xuân dung dị qua

Huống phục thị xuân muộn vị tiêu thu hận tục

Huống phục thị hợp hoan cánh thiểu biệt sầu đa

Biệt sầu thu hận lưỡng tương ma

Bồ liễu thanh thanh năng kỷ hà

Không thán tích lệ tư ta

Chỉ phạ bạch đáo Văn Quân đầu không thán tích

Chỉ khủng hoa đáo Phan lang mấn lãng tư ta

Thán tích hà dĩ vi

Nhan sắc do hồng như nộn hoa

Tư ta hà dĩ vi

Quang âm nhất trịch vô hồi qua

Tư mệnh bạc tích niên hoa

Phân phân thiếu phụ kỷ thành bà

Hương các trùng hoài bồi tiếu kiểm

Hoa lâu thượng ký giải hương la

Hận thiên bất dữ nhân phương tiện

Để sự đáo kim thành khảm kha

Khảm kha khảm kha tri nại hà

Vị thiếp ta hề vị quân ta

Quân bất kiến dã ngoại song uyên ương

Cam tâm bất nhẫn lưỡng phân trương

Hựu bất kiến lương giang song yến yến

Bạch thủ hà tằng vong quyến luyến

Kiêm kiêm dã vô tình

Tỷ dực tương tùy quá nhất sinh

Cùng cùng dã vô tri

Tịnh khu đáo lão bất tương vi

Lộ liễu tằng truyền liên lý xứ

Trì liên diệc hữu tịnh đầu thời

Phụ quyết hề cự hư

Bão la hề thố ty

Hà nhân sinh chi tương vi

Ta vật loại chi như tư

An đắc tại thiên vi tỷ dực điểu

Tại địa vi liên lý chi

Ninh cam tử tương kiến

Bất nhẫn sinh tương ly

Tuy nhiên tử tương kiến

Hạt nhược sinh tương tùy

An đắc quân vô đáo lão nhật

Thiếp thường thiếu niên

Nguyện vi ảnh hề tùy quân biên

Quân hữu hành hề ảnh bất viễn

Quân y quang hề thiếp như nguyện

Nguyện quân hứa quốc tâm như đan

Nguyện quân tý dân thân như thiết

Cơ lai thôn hạ Nhục Chi đầu

Khát lai ẫm hạ Thiền Vu huyết.

Hà hạnh Kỳ môn phong nhẫn trung

Lão thiên trước ý hộ anh hùng

Hộ anh hùng bách chiến công

Trường khu tứ mã tịnh quan Ðông

Quan Đông Quan Bắc hưu truyền tiễn,

Sơn vĩ sơn đầu tảo quải cung

Tiệp sắc tinh kỳ từ tái nguyệt

Khải ca tướng sĩ bối biên phong

Lặc thi hề Yên Nhiên thạch

Hiến quắc hề Vị Ương cung

Vị Ương cung hề hướng thiên triều

Vãn Ngân hà hề tẩy đao cung

Từ nhân san hạ Bình Hoài Tụng

Nhạc phủ ca truyền nhập Hán dao

Lăng Yên các hề Tần Thúc Bửu

Kỳ Lân đài hề Hoắc Phiêu Diêu

Thiên trường địa cửu mao thư khoán

Tử ấm thê phong tước lộc tiêu

Hữu sầu hề thử nhật

Đắc ý hề lai thời

Thiếp phi Tô gia si tâm phụ

Quân diệc Lạc dương hảo nam nhi

Quy lai thảng bội hoàng kim ấn

Khẳng học đương niên bất há ky

Nguyện vi quân hề giải chinh y

Nguyện vi quân hề bổng hà chi

Vi quân sơ trất vân hoàn kế

Vi quân trang điểm ngọc yên chi

Thủ quân khan hề cựu lệ phạ

Tố quân thính hề cựu tình từ

Cựu tình từ hề hoán tân liên

Ngữ tân thoại cựu hề tửu bôi tiền

Thiển châm hề mạn mạn

Đê xướng hề liên liên

Châm bất châm hề Bồ thành nhưỡng

Xướng bất xướng hề Tử lưu thiên

Nguyện châm cửu uấn hề xướng song liên

Dữ quân chỉnh đốn hề cựu nhân duyên

Giao kỉnh thành song đáo lão thiên

Thường liễu công danh ly biệt trái

Tương liên tương thủ thái bình niên

Thái bình niên nguyện quân chỉ qua trí

Nhược nhiên thử biệt thiếp hà lệ

Tương hội chi kỳ tương ký ngôn

Ta hồ trượng phu đương như thị.

Dịch thơ

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.

Xanh kia thăm thẳm tầng trên,

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ?

 

Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,

Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.

Chín tầng gươm báu trao tay,

Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.

 

Nước thanh bình ba trăm năm cũ.

Áo nhung trao quan vũ từ đâỵ

Sứ trời sớm giục đường mây,

Phép công là trọng, niềm tây sá nào.

 

Đường rong ruổi lưng đeo cung tiễn,

Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.

Bóng cờ tiếng trống xa xa,

Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.

 

Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,

Xếp bút nghiên theo việc đao cung.

Thành liền mong tiến bệ rồng,

Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.

 

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.

Dã nhà đeo bức chiến bào,

Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.

 

Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,

Đường bên cầu cỏ mọc còn non.

Đưa chàng lòng dằng dặc buồn,

Bộ khôn bằng ngựa, thuỷ khôn bằng thuyền.

 

Nước có chảy mà phiền chẳng rửa,

Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây.

Nhủ rồi nhủ lại cầm tay,

Bước đi một bước dây dây lại dừng.

 

Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,

Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San.

Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,

Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.

 

Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử,

Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba.

Áo chàng đỏ tựa ráng pha,

Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.

 

Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,

Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay.

Hà Lương chia rẽ đường này,

Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi.

 

Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu,

Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương.

Quân đưa chàng ruổi lên đường,

Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng ?

 

Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng,

Hàng cờ bay trong bóng phất phơ.

Dấu chàng theo lớp mây đưa,

Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.

 

Chàng thì đi cõi xa mưa gió,

Thiếp thì về buồng cũ gối chăn.

Đoái trông theo đã cách ngăn,

Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh.

 

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

 

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.

Ngàn dâu xanh ngắt một màu,

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?

 

Chàng từ đi vào nơi gió cát,

Đêm trăng này nghỉ mát phương nao ?

Xưa nay chiến địa dường bao,

Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu.

 

Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,

Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon.

Ôm yên gối trống đã chồn,

Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.

 

Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,

Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.

Hình khe, thế núi gần xa,

Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.

 

Sương đầu núi buổi chiều như dội,

Nước lòng khe nẻo suối còn sâu.

Thương người áo giáp bấy lâu,

Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.

 

Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,

Mặt chinh phu ai vẽ cho nên ?

Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,

Chẳng nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan.

 

Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,

Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.

Lên cao trông thức mây lồng,

Lòng nào là chẳng động lòng bi thương !

 

Chàng từ sang Đông Nam khơi nẻo,

Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu ?

Những người chinh chiến bấy lâu,

Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.

 

Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước,

Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu ?

Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.

 

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.

Chinh phu tử sĩ mấy người,

Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn.

 

Dấu binh lửa, nước non như cũ,

Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.

Phận trai già ruổi chiến trường,

Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về.

 

Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,

Ba thước gươm, một cỗ nhung yên.

Xông pha gió bãi trăng ngàn,

Tên reo đầu ngựa, giáo dan mặt thành.

 

Áng công danh trăm đường rộn rã,

Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.

Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai,

Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.

 

Trong cửa này đã đành phận thiếp,

Ngoài mây kia há kiếp chàng vay ?

Những mong cá nước sum vầy,

Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.

 

Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,

Chàng há từng học lũ vương tôn.

Cớ sao cách trở nước non,

Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu.

 

Khách phong lưu đương chừng niên thiếu,

Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.

Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,

Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành.

 

Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,

Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca.

Nay quyên đã giục, oanh già,

Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.

 

Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió,

Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông.

Nay đào đã quyến gió Đông,

Phù dung lại đã bên sông bơ sờ.

 

Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy,

Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm ?

Ngập ngừng, lá rụng cành trâm,

Thôn trưa nghe dậy tiếng cầm lao xao.

 

Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ,

Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao ?

Ngập ngừng gió thổi chéo bào,

Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.

 

Tin thường lại, người không thấy lại,

Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh.

Rêu xanh mấy lớp chung quanh,

Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ.

 

Thư thường tới, người không thấy tới,

Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.

Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,

Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai.

 

Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,

Tiền sen này đã nẩy là ba.

Xót người lần lữa ải xa,

Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài.

 

Tình gia thất nào ai chẳng có,

Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương.

Mẹ già phơ phất mái sương,

Con thơ măng sữa, vả đương phù trì.

 

Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,

Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.

Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,

Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.

 

Nay một thân nuôi già dạy trẻ,

Nỗi quan hoài mang mễ biết bao !

Nhớ chàng trải mấy sương sao,

Xuân từng đổi mới, Đông nào còn dư.

 

Kể năm đã ba tư cách diễn,

Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang.

Ước gì gần gũi tấc gang,

Giải niềm cay đắng để chàng tỏ hay.

 

Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá,

Gương lầu Tần dấu đã soi chung.

Cậy ai mà gửi tới cùng,

Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư.

 

Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía,

Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi.

Cậy ai mà gửi tới nơi,

Để chàng trân trọng dấu người tương thân.

 

Trải mấy xuân, tin đi tin lại,

Tới xuân này tin hãy vắng không.

Thấy nhàn, luống tưởng thư phong,

Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng.

 

Gió tây nổi không đường hồng tiện,

Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa.

Màn mưa trướng tuyết xông pha,

Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.

 

Đề chữ gấm, phong thôi lại mở,

Gieo bói tiền tin dở còn ngờ.

Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,

Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.

 

Há như ai, hồn say bóng lẫn,

Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.

Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng,

Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.

 

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?

 

Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương !

 

Gà eo óc gáy sương năm trống,

Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.

Khắc giờ đằng đẵng như niên,

Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.

 

Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,

Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

 

Lòng này gửi gió đông có tiện,

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.

Non Yên dù chẳng tới miền,

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

 

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.

 

Sương như búa bổ mòn gốc liễu,

Mưa dường cưa xẻ héo cành ngộ

Giọt sương phủ bụi chim gù,

Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.

 

Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,

Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.

Lá màn lay ngọn gió xuyên,

Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.

 

Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,

Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau.

 

Đâu xiết kể, muôn sầu nghìn não,

Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi.

Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,

Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa.

 

Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,

Sớm lại chiều, dòi dõi nương song.

Nương song luống ngẩn ngơ lòng,

Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai ?

 

Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi,

Xót nỗi chàng, ngoài cõi Giang Lăng.

Khác gì ả Chức, chị Hằng,

Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng.

 

Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối,

Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm.

Mượn hoa, mượn rượu giải buồn,

Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.

 

Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng,

Ôm đàn tranh mấy phím rời tay.

Xót người hành dịch bấy nay,

Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi.

 

Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt,

Trống tiều khua, như rứt buồng gan.

Võ vàng đổi khác dung nhan,

Khuê ly mới biết tân toan dường này.

 

Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ,

Chua cay này, há có vì ai ?

Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi,

Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề.

 

Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,

Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn.

Duy còn hồn mộng được gần,

Đêm đêm thường đến Giang Tân tìm người.

 

Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ,

Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.

Sum vầy mấy lúc tình cờ,

Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân.

 

Giận thiếp thân lại không bằng mộng,

Được gần chàng bến Lũng, thành Quan.

Khi mơ những tiếc khi tàn,

Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không !

 

Duy có một tấm lòng chẳng dứt,

Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi.

Lòng theo nhưng chửa thấy người,

Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.

 

Trông bến Nam, bãi che mặt nước,

Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh.

Nhà thôn mấy xóm chông chênh,

Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.

 

Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách,

Mây rà cây xanh ngắt núi non.

Lúa thành thoi thóp bên cồn,

Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.

 

Non Đông thấy lá hầu chất đống,

Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai.

Khói mù nghi ngút ngàn khơi,

Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.

 

Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,

Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu.

Ngàn thông chen chúc chòm lau,

Cách duềnh thấp thoáng người đâu đi về.

 

Trông bốn bề chân trời mặt đất,

Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen.

Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn,

Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan ?

 

Gậy rút đất dễ khôn học chước,

Khăn gieo cầu nào được thấy tiên.

Lòng này hóa đá cũng nên,

E không lệ ngọc mà lên trông lầu.

 

Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,

Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.

Chẳng hay muôn dặm ruổi giong,

Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng ?

 

Lòng chàng ví cũng bằng như thế,

Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa.

Hướng dương lòng thiếp như hoa,

Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.

 

Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,

Hoa để vàng bởi tại bóng dương.

Hoa vàng hoa rụng quanh tường,

Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần.

 

Chồi lan nọ trước sân đã hái,

Ngọn tần kia bên bãi đưa hương.

Sửa xiêm dạo bước tiền đường,

Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ.

 

Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ,

Độ Khuê Triền buổi có buổi không.

Thức mây đòi lúc nhạt nồng,

Chuôi sao Bắc Đẩu thôi Đông lại Đoài.

 

Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,

Bừng mắt trông sương gội cành ngô.

Lạnh lùng thay bấy chiều thu,

Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi .

 

Một năm một nhạt mùi son phấn,

Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi.

Xưa sao hình ảnh chẳng rời,

Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương.

 

Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ,

Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in.

Gió Xuân ngày một vắng tin,

Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì.

 

Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy,

Trước gió xuân vàng tía sánh nhau.

Nọ thì ả Chức chàng Ngâu,

Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông.

 

Thương một kẻ phòng không luống giữ,

Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau.

Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,

Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh.

 

Xuân thu để giận quanh ở dạ,

Hợp ly đành buồn quá khi vui.

Oán sầu nhiều nỗi tơi bời,

Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.

 

Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước,

E đến khi đầu bạc mà thương.

Mặt hoa nọ gã Phan Lang,

Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng.

 

Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở,

Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.

Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa,

Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ dòng.

 

Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt,

Lầu hoa kia phảng phất hơi hương.

Trách trời sao để lỡ làng,

Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên.

 

Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội,

Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương.

Chẳng xem chim yến trên rường,

Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.

 

Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,

Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.

Liễu, sen là thức cỏ cây,

Đôi hoa cùng sánh, đôi dây cùng liền.

 

Ấy loài vật tình duyên còn thế,

Sao kiếp người nỡ để đấy đây ?

Thiếp xin muôn kiếp sau này,

Như chim liền cánh, như cây liền cành.

 

Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy,

Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.

Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,

Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.

 

Xin làm bóng theo cùng chàng vậy,

Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên.

Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền,

Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn.

 

Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt,

Sức tý dân dường sắt tri tri.

Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi,

Ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn.

 

Mũi đòng vác đòi lần hăm hở,

Đã lòng trời gìn giữ người trung.

Hộ chàng trăm trận nên công,

Buông tên ải Bắc, treo cung non Đoài.

 

Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải,

Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh.

Đỉnh non khắc đá đề danh,

Triều thiên vào trước cung đình dâng công.

 

Nước duềnh Hán việc đòng rửa sạch,

Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen.

Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,

Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân.

 

Nền huân tướng đai cân rạng vẻ,

Chữ đồng hưu bia để nghìn đông.

Ơn trên tử ấm thê phong,

Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.

 

Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ,

Chàng hẳn không kém lũ Lạc Dương.

Khi về chẳng quả ấn vàng,

Trên khung cửi dám dẫy duồng làm cao.

 

Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,

Xin vì chàng giũ lớp phong sương.

Vì chàng tay chuốc chén vàng,

Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.

 

Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,

Đọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu.

Câu vui đổi với câu sầu,

Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.

 

Sẽ rót vơi lần lần từng chén,

Sẽ ca dần ren rén đòi liên.

Liên ngâm đối ẩm đòi phen,

Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.

 

Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ,

Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình.

Ngâm nga mong gửi chữ tình,

Dường này âu hẳn tài lành trượng phu !

(Dịch thơ: Đoàn Thị Điểm)

Xem thêm:
20+ bài thơ về người lính Việt Nam anh hùng, bất khuất
100 câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ về quê hương, đất nước, con người Việt Nam
47 câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ về lòng yêu nước, yêu quê hương

Thơ lòng yêu nước thời kháng chiến

Thơ về lòng yêu nước được ví như một vụ mùa bội thu. Đó là nơi các hồn thơ lớn của dân tộc Việt Nam bày tỏ tấm lòng yêu nước sâu sắc của mình. Họ nguyện chiến đấu để bảo vệ mảnh đất thân thương ấy, gian khổ mà vinh quang. Những áng thơ về lòng yêu nước trong thời kỳ kháng chiến hào hùng ấy đã khơi gợi, đánh thức được niềm tự hào vô bờ bến của thế hệ mai sau dành cho sự hy sinh thầm lặng của cha ông ta. 

Đất nước – Nguyễn Đình Thi (năm 1955)

tho-ve-long-yeu-nuoc-voh-2
Ảnh: Internet

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

 

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha!

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

 

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về!

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Từ những năm đau thương chiến đấu

Ðã ngời lên nét mặt quê hương

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Ðã bật lên những tiếng căm hờn

 

Bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta

Thằng giặc Tây, thằng chúa đất

Ðứa đè cổ, đứa lột da...

 

Xiềng xích chúng bay không khóa được

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước thương nhà!

 

Khói nhà máy cuộn trong sương núi

Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng

Ôm đất nước những người áo vải

Ðã đứng lên thành những anh hùng.

 

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội

Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

 

Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

Người đi tìm hình của nước – Chế Lan Viên (năm 1960)

Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi

Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác!

Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất,

Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre.

Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ?

Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương!

Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở,

Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương!

Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp

Giấc mơ con đè nát cuộc đời con!

Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp!

Một mái nhà yêu rủ bóng xuống tâm hồn.

Trǎm cơn mơ không chống nổi một đêm dày

Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi

Lòng ta thành con rối

Cho cuộc đời giật dây!

Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê

Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ

Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ

Tìm đường đi cho dân tộc theo đi.

Hiểu sao hết Người đi tìm hình của Nước

Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người

Một góc quê hương, nửa đời quen thuộc,

Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi...

Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất

Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai

Thế đi đứng của toàn dân tộc

Một cách vinh hoa cho hai mươi lǎm triệu con người.

Có nhớ chǎng, hỡi gió rét thành Ba Lê?

Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa bǎng giá

Và sương mù thành Luân Đôn, người có nhớ

Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?

Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể

Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi,

Những đất tự do, những trời nô lệ,

Những con đường cách mạng đang tìm đi.

Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước

Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà

Ấn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc

Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa.

Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?

Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?

Bao giờ dải Trường Sơn bừng tỉnh giấc ngủ

Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?

Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?

Nụ cười sẽ ra sao?...

Ơi, độc lập!

Xanh biếc mấy là trời xanh Tổ quốc

Khi tự do về chói ở trên đầu.

Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông

Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt

Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc

Sao vàng bay theo liềm búa công nông.

Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc

Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin.

Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp

Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin.

Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc:

"Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"

Hình của Đảng lồng trong hình của Nước.

Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười,

Bác thấy:

Dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt

Ruộng theo trâu về lại với người cày

Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, biển bạc...

Không còn người bỏ xác bên đường ray.

Giặc đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát

Điện theo trǎng vào phòng ngủ công nhân

Những kẻ quê mùa đã thành trí thức

Tǎm tối cần lao nay hóa những anh hùng.

Nước Việt Nam nghìn nǎm Đinh, Lý, Trần, Lê

Thành nước Việt nhân dân trong mát suối

Mái rạ nghìn nǎm hồng thay sắc ngói

Những đời thường cũng có bóng hoa che.

Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc

Tuyết Matxcova sáng ấy lạnh trǎm lần

Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt

Lênin mất rồi! Nhưng Bác chẳng dừng chân.

Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt

Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi

Kìa! Bóng Bác đang hôn lên hòn đất

Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai.

Hôn mảnh đất quê hương – Thu Bồn (năm 1962)

Tôi cúi xuống hôn mảnh đất quê hương

Như hôn người yêu sau ngày xa cách

Tôi không khóc nhưng vẫn trào nước mắt

Con đã về đây với mẹ - Mẹ quê hương!

 

Thanh Quýt Giáp Năm ruộng đồng xơ xác

Đầu con đau dưới nắng chan chan

Giếng đã cạn môi người khao khát

Quê hương dòng sữa mẹ tuôn tràn.

 

Đất hỡi đất! Người vẹn lòng yêu nước

Viên đạn bây giờ cày lên viên đạn năm xưa

Chiếc áo màu xanh dù rách nát

Vẫn hiền hoà đùm bọc mẹ sớm trưa.

 

Vẫn nguyên vẹn một màu xanh xứ sở

Như mắt ai xanh tự thuở ban đầu

Sông Thu Bồn ơi! Ta nghe người đương thở

Vỗ triền miên gội tóc những nương dâu.

 

Anh đã về đây em ơi! Có gầy đi một chút

Nhưng quả tim đập nhịp phi thường

Quả tim qua hai lần đạn lửa

Vẫn đợi chờ chan chứa yêu thương.

 

Anh về với em như con sông về biển

Chắt chiu dòng nước ngọt nguồn xa

Hãy nhận lấy dùm anh: con sóng nhỏ

Qua bãi bồi lắng đọng phù sa.

 

Ấp chiến lược đám mây đen che phủ

Lòng xót xa quặn cháy mái nhà rơm

Mẹ lom khom vịn vào vai núi

Chúng con đi mờ khuất dãy Trường Sơn.

 

Tôi cúi xuống hôn mảnh đất quê hương

Như hôn người yêu sau ngày xa cách

Tôi không khóc nhưng bỗng trào nước mắt

Con đã về với mẹ quê hương.

Đừng quên – Chế Lan Viên (năm 1964)

Nửa nước hòa bình

Nửa nước chiến tranh

Cứ trong hai câu thơ Việt Nam

Một còn đang rách xé

Cứ trong hai dòng sông, dãy núi Việt Nam

Một đang cày lên vì đạn Mỹ

Đừng quên

 

Chớ nhân danh hoa hồng của những công viên

Nhân danh tình yêu, nhân danh gối cưới

Nhân danh cả hòa bình thế giới

Quên rằng chốn ấy đang còn đêm

Ở đây quyền sinh sát được ban hành tận xã

Một tên trưởng thôn cũng có thể giết người

Cờ Mỹ chỉ lối đi về huyệt mả

Mỗi thân cây đều mọc nhánh treo người

 

Nửa nước hòa bình

Nửa nước chiến tranh

Một tai lắng nghe chim

Một tai nghe chừng đạn nổ

Phòng ngoài chớ ngủ yên

Phòng trong đang bốc lửa

Đừng quên!

 

Chúng muốn xé bản đồ ta ra làm hai Tổ quốc

Xé thân thể ta thành máu thịt đôi miền

Xé nhân dân ta thành hai dòng trong đục

Để tâm hồn ta thành khi nhớ khi quên

 

Nửa nước chiến tranh

Hỡi những con chim câu cánh trắng yên lành

Chớ vỗ cánh bình yên qua đạn lửa

Chớ đem sắc trắng của ngươi mà che màu máu đỏ

Chớ mê hoặc người bằng một sắc trời xanh

 

Nửa nước hòa bình

Nửa nước chiến tranh

Máu thấm vào lòng đất đã sâu

Sao trang giấy lòng anh suy nghĩ cạn

Mỗi chúng ta đi ở đây

Đều có bóng mình ở miền Nam đang ra trận

Đừng quên!

Phà đêm – Hoàng Trung Thông (năm 1965)

Đêm nay đêm thứ mấy trăm rồi

Muôn vì sao mờ ảo giữa sông trôi

Đêm nay phà vẫn lao về trước

Đường vẫn nối liền qua sóng nước

 

Đêm nay rồi nữa những đêm sau

Hai bờ sông bom giặc nổ ngang đầu

Hỡi những người lái phà anh dũng

Lòng yêu nước chấp cùng trăm đạn súng

 

Một chuyến phà rồi một chuyến phà sang

Như nhịp cầu di động dọc ngang.

Một đoàn xe... một đoàn xe nữa đền

Băng qua những dòng sông hỏa tuyến

 

Ôi gian lao thử thách tim người

Đêm nay đêm thứ mấy trăm rồi.

Người lái phà vẫn đứng đầu sóng nước

Như chiến sĩ trên tuyến đầu Tổ quốc.

Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi – Nam Hà (năm 1966)

tho-ve-long-yeu-nuoc-voh-3
 

Đường dài đi giữa Trường Sơn

Nghe vọng bài ca đất nước

 

Đất Nước

Bốn ngàn năm không nghỉ

Những đạo quân song song cùng lịch sử

Đi suốt thời gian, đi suốt không gian

Sừng sững dưới trời anh dũng hiên ngang

 

Đất Nước

Của những câu chuyện đều làm ta rưng rưng nước mắt

Đã trở thành những bài ca không bao giờ tắt

Trên mỗi con đường mỗi thôn xóm ta qua

Từ non ngàn cho tới biển xa

 

Đất Nước

Của thơ ca

Của bốn mùa hoa nở

Đọc trang Kiều tưởng câu hát dân gian

Nghe xôn xao trong gió hội mây ngàn

 

Đất Nước

Của những dòng sông

Gọi tên nghe mát rượi tầm hồn

Ngọt lịm những giọng hò xứ sở

Trong sáng như trời xanh, mượt mà như nhung lụa

 

Đất Nước

Của những người mẹ

Mặc áo thay vai

Hạt lúa củ khoai

Bền bỉ nuôi chồng, nuôi con chiến đấu

 

Đất Nước

Của những người con gái con trai

Đẹp như hoa hồng cứng như sắt thép

Xa nhau không hề rơi nước mắt

Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt

 

Đất Nước

Của Bác Hồ

Của óc thông minh và lòng dũng cảm

Của những đèn pha cách mạng

Soi sáng chân trời xuyên suốt đại dương

 

Ôi tuổi thanh xuân

Mang bốn ngàn năm lịch sử trong tim

Ta sung sướng được làm người con Đất Nước

Ta băng tới trước quân thù như triều như thác

Ta làm bão, làm dông

Ta lay trời chuyển đất

Ta trút hờn căm để làm nên những vinh quang bất diệt

Giáng xuống quân thù như sấm sét không nguôi

Sức mạnh bốn ngàn năm đã biến thành bão lửa ngút trời

 

Đất Nước

Ta hát mãi bài ca Đất Nước

Cho tuổi thanh xuân sáng bừng lên như ngọc

Cho mắt ta nhìn tận cùng trời

Và cho chân ta đi tới cuối đất

Ôi! Tổ quốc mà ta yêu quý nhất

Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi!

Bài thơ của một người yêu nước mình - Trần Vàng Sao (năm 1967)

Buổi sáng tôi mặc áo đi giày 

Ra đứng ngoài đường

Gió thổi những bông nứa trắng bên sông

Mùi tóc khô còn thơm lúa mùa qua

Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà

Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé

Tôi yêu đất nước này như thế

Mỗi buổi mai

Bầy chim sẻ ngoài sân

Gió mát và trong

Đường đi đầy cỏ may và muộn chuộng

Tôi vẫn sống

Vẫn ăn

Vẫn thở

Như mọi người

 

Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ

Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu

Một vết bùn khô trên mặt đá

Không có ai chia tay

Cũng nhớ một tiếng còi tàu.

Mẹ tôi thức khuya dậy sớm

Năm nay ngoài năm mươi tuổi

Chồng chết đã mười mấy năm

Thuở tôi mới đọc được i tờ

Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần

Nước sông gạo chợ

Ngày hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ

Sống qua ngày nên phải nghiến răng

Cũng không vui nên mẹ ít khi cười

Những buổi trưa buổi tối

Ngồi một mình hay khóc

Vẫn thở dài mà không nói ra

Thương con không cha

Hẩm hiu côi cút

Tôi yêu đất nước này xót xa

Mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng

Thương tôi nên ở góa nuôi tôi

Những đứa nhà giàu hằng ngày chửi bới

Chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc,

Như cho một đứa hủi

Ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới

Thắp ba cây hương

Với mấy bông hải đường

Mẹ tôi khóc thút thít

Cầu cha tôi phù hộ tôi nên người

Con nó còn nhỏ dại

Trí chưa khôn chân chưa vững bước đi

Tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng

Tôi yêu đất nước này cay đắng

Những năm dài thắp đuốc đi đêm

Quen thân rồi không ai còn nhớ tên

Dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng

Áo mồ hôi những buổi chợ về

Đời cúi thấp

Giành từng lon gạo mốc,

Từng cọng rau hột muối

Vui sao khi con bữa đói bữa no

Mẹ thương con nên cách trở sông đò

Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc

Đêm nào mẹ cũng khóc

Đêm nào mẹ cũng khấn thầm

Mong con khôn lớn cất mặt với đời

Tôi yêu đất nước này khôn nguôi

Tôi yêu mẹ tôi áo rách

Chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu.

Tôi bước đi

Mưa mỗi lúc mỗi to,

Sao hôm nay lòng thấy chật

Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc

Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua

Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước

Chim đậu trên cành chim không hót

Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may

Tôi yêu đất nước này những buổi mai

Không ai cười không tiếng hát trẻ con

Đất đá cỏ cây ơi

Lòng vẫn thương mẹ nhớ cha

Ăn quán nằm cầu

Hai hàng nước mắt chảy ra

Mỗi đêm cầu trời khấn phật, tai qua nạn khỏi

Tôi yêu đất nước này áo rách

Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió

Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở

Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài

Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai

Tôi yêu đất nước này như thế

Như yêu cây cỏ ở trong vườn

Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương

Nuôi tôi thành người hôm nay

Yêu một giọng hát hay

Có bài mái đẩy thơm hoa dại

Có sáu câu vọng cổ chứa chan

Có ba ông táo thờ trong bếp

Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen

Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em

Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò

Áo trắng và chùm hoa phượng đỏ

Trong bước chân chim sẻ

Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi

Hay nói chuyện huyên thuyên

Chuyện trên trời dưới đất rất lạ

Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá

Cứ hay cười mà không biết có người buồn.

Sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn

Khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại

Ngó cây cam cây vải

Thương mẹ già như chuối ba hương

Em chưa buồn

Vì chưa rách áo

Tôi yêu đất nước này rau cháo

Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu

Áo đứt nút qua cầu gió bay

Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan

Tôi yêu đất nước này lầm than

Mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển

Ăn rau rìu rau éo rau trai

Nuôi lớn người từ ngày mở đất

Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật

Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ

Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng.

Tôi đi hết một ngày

Gặp toàn người lạ

Chưa ai biết chưa ai quen

Không biết tuổi không biết tên

Cùng sống chung trên đất

Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam

Cùng có chung tên gọi Việt Nam

Mang vết thương chảy máu ngoài tim

Cùng nhức nhối với người chết oan ức

Đấm ngực giận hờn tức tối

Cùng anh em cất cao tiếng nói

Bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do

Bữa ăn nào cũng phải được no

Mùa lạnh phải có áo ấm

Được nói cười hát ca yêu đương không ai cấm

Được thờ cúng những người mình tôn kính

Hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định.

Tôi trở về căn nhà nhỏ

Đèn thắp ngọn lù mù

Gió thổi trong lá cây xào xạc

Vườn đêm thơm mát

Bát canh rau dền có ớt chìa vôi

Bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc

Mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái tử

Đất nước hôm nay đã thấm hồn người

Ve sắp kêu mùa hạ

Nên không còn mấy thu

Đất nước này còn chua xót

Nên trông ngày thống nhất

Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam

Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc

Lòng vui hôm nay không thấy chật

Tôi yêu đất nước này chân thật

Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi

Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi

Và yêu tôi đã biết làm người

Cứ trông đất nước mình thống nhất.

2.8 Gửi em cô thanh niên xung phong – Phạm Tiến Duật (năm 1968)

Có lẽ nào anh lại mê em

Một cô gái không nhìn rõ mặt

Ðại đội thanh niên đi lấp hố bom

Áo em hình như trắng nhất

 

Người tinh nghịch là anh dễ thân

Bởi vì thế có em đứng gần

Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là “Thạch Nhọn”

Ðêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón

 

Em đóng cọc rào quanh hố bom

Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn

Tiếng Hà tĩnh nghe buồn cười đáo để

Anh lặng người như trôi trong tiếng ru.

 

Tranh thủ có ánh sáng đèn dù

Anh vội nhìn em và bạn em khắp lượt

Mọi người cũng tò mò nhìn anh

Rồi bóng tối lại khép vào bóng tối

 

Em ơi em, hãy nghe anh hỏi

Xong đoạn đường này các em làm đâu

Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu

Cô gái ở Thạch Kim Thạch Nhọn

Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm

Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều.

 

Anh đã đi rất nhiều, rất nhiều

Những con đường như tình yêu mới mẻ

Ðất rất hồng và người rất trẻ

Nhưng chẳng thấy em, cô gái ở Thạch Nhọn Thạch Kim

 

Những đội làm đường hành quân trong đêm

Nào cuốc nào choòng xoong nồi xủng xoảng

Rực rỡ mặt đất bình minh

Hấp hối chân trời pháo sáng

Ðường trong tim anh in những dấu chân.

 

Chiếc võng bạc trên đường hành quân

Anh đã buộc nhiều cây xoan cây ổi

Lại đường mới và hàng nghìn cô gái

Ở đâu em tinh nghịch của anh?

 

Bụi mù trời mùa hanh

Nước trắng khe mùa lũ

Ðêm rộng dài là đêm không ngủ

Em vẫn đi, đường vẫn liền đường

 

Cạnh giếng nước có bom từ trường

Em không rửa ngủ ngày chân lấm

Ngày em phá nhiều bom nổ chậm

Ðêm nằm mơ nói mớ vang nhà

Chuyện kể từ nỗi nhớ sâu xa

Thương em, thương em, thương em biết mấy...

 

Dừng tay cuốc khi em ngoảnh lại

Sẽ giật mình đường mới ta xây

Ðã có độ dài hơn cả độ dài

Của đường xá đời xưa để lại

Sẽ ra về bao nhiêu cô gái

Một ngày mai đường sẽ đứng chơ vơ

Ðể cho đời sau còn thấy ngẩn ngơ

Trước những công trình ngoằn ngoèo trên mặt đất.

 

Ơi em gái chưa một lần rõ mặt

Có lẽ nào anh lại mê em

Từ cái đêm Thạch Nhọn Thạch Kim

Tên em đã thành tên chung anh gọi:

Em là cô thanh niên xung phong.

Tổ quốc – Huy Cận (1969)

(Tâm sự yêu nước của kiều bào tại Pháp

Yêu mến tặng kiều bào ở nước ngoài)

 

Việt Nam ơi! Mẹ nghìn đời yêu dấu

Tên thiêng liêng đau đáu lòng con

Mẹ có biết tâm hồn con chảy máu

Thuở đau thương, mẹ nuốt tủi, nuôi hờn.

 

Tổ quốc ơi! Bởi vì sao mỗi bước

Chân con đi xa mẹ nhói bàn chân

Cũng ánh sáng, cũng trời mây, gió nước

Xa quê hương sao nhạt nhẽo muôn phần!

 

Ai có biết làm sao nói được

Lòng tha hương trằn trọc nhớ quê hương

Mắt có ngủ mà hồn ta vẫn thức

Tình non sông da diết máu xương.

 

Đêm khuya vắng, bỗng nhớ mùi hương bưởi

Ướt ánh trăng thơm suốt mấy canh gà

Cả tuổi nhỏ lại trở về mát rượi

Bóng dừa xanh, hàng tre mượt quê ta.

 

Những đứa con phải xa rời Tổ Quốc

Mẹ biết chăng, chỉ sống nửa tâm hồn

Một nửa khác gửi với theo sóng nước

Về quê cha đặng giữ thắm lòng son.

 

Việt Nam ơi! Nuôi đàn con những thuở

Mẹ cắn răng không cho nước mắt trào

Mẹ lấy sức vùng lên trong biển lửa

Mẹ hôm nay sừng sững giữa trời cao.

 

Vẫn xa nước lòng nay sao rạng rỡ

Lửa quê hương soi ấm tấm lòng con

Bao con mẹ bấy nhiêu hòn máu đỏ

Mẹ lại cho con vẹn cả tâm hồn.

 

Anh em ơi, bởi vì sao mỗi bước

Chân ta đi ngang dọc khắp trời tây

Không lủi thủi, chẳng ngỡ ngàng như trước

Cái thuở cha, anh lê gót đoạ đày.

 

Mẹ Việt Nam, mẹ nghìn đời yêu dấu

Ôi quê hương, máu của máu lòng ta

Lòng yêu nước bốn nghìn năm nung nấu

Chia đều con như sữa mẹ cơm cha.

 

Xa đất nước, vẫn cành xuân phơi phới

Quyết đơm hoa góp mùa rộ quê nhà.

Ánh dương sớm chân trời ta chiếu rọi

Theo đàn con vững gót nẻo đường xa.

Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm (năm 1971)

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó...

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"

Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hàng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất nước vẹn tròn, to lớn

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang đất nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời...

Lá đỏ - Nguyễn Đình Thi (năm 1974)

Gặp em trên cao lộng gió

Rừng lạ ào ào lá đỏ

Em đứng bên đường như quê hương

Vai ác bạc quàng súng trường.

Ðoàn quân vẫn đi vội vã

Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa.

Chào em, em gái tiền phương

Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn.

Em vẫy cười đôi mắt trong.

Xem thêm:
Top những câu nói hay về quê hương đong đầy tình cảm
32 bài thơ về quê hương đất nước, thơ 4 chữ về quê hương
Bộ sưu tập 63 câu đố lịch sử Việt Nam hay nhất

Những bài thơ về lòng yêu nước trong thời bình

Lòng yêu nước của mỗi người được biểu hiện ở những hành động khác nhau. Nó rất đa dạng và phong phú. Có người thì cố gắng phấn đấu học tập để trở thành người tài giúp ích cho xã hội, có người lại cống hiến tuổi trẻ bảo vệ nước nhà. Tinh thần yêu nước ấy cứ mỗi ngày một lớn hơn, lan tỏa đi khắp muôn nơi.

Dưới đây là những bài thơ về lòng yêu nước ở thời bình nhẹ nhàng và sâu sắc của các thi sĩ Việt Nam, mời các bạn đón đọc.

Khoảng lặng yên Tháng Tư – Ngô Thế Oanh (năm 1975)

tho-ve-long-yeu-nuoc-voh-4
 

Tôi chưa bao giờ gặp đâu một bầu trời như thế

Bầu trời trong cao rộng khác thường

Những hàng me vừa mùa thay lá

Sắc xanh non tuôn sáng những bờ đường

 

Sau cơn mưa thành phố như gương

Lấp lánh những tường nhà khuôn mặt

Những lá cờ trên những ô cửa sổ đỏ tươi

Những lá cờ... không hiểu sao tôi bỗng rưng nước mắt

 

Mặt trời thật giản dị trên cao

Quân phục đẫm mồ hôi bụi khát

Những vòm sao cao vút trên đầu

Cụm mây trắng tinh di động về đâu

Đồng đội của tôi đồng đội của tôi

Nói gì được nữa đây trong buổi mai toàn thắng

Bỗng thấm thía hơi ấm bàn tay bạn

Đất dịu mát dưới chân không sao thốt lên lời

 

Khoảnh khắc thành phố đường lặng yên

Lặng yên hàng cây

Lặng yên vòm trời

Lặng yên những căn nhà

Lặng yên những lá cờ trong nắng

Lặng yên nét cười thắm sâu mắt bạn

 

Khoảnh khắc thành phố như mặt biển

Rồi tất cả trào lên cuồn cuộn thủy triều.

Những người đi tới biển – Thanh Thảo (năm 1977)

(Khúc sáu - Chương hai)

 

Tôi thương quá những gì đã nuôi nấng đời tôi

Bờ suối ngọn nguồn con tôm con tép

Bát canh tàu bay tiếng bầy chim két

Một chút trăng thu trái bắp đầu mùa

Những cây rừng mọc thẳng giữa dây leo

Nấm mới thơm lành sau cơn mưa buổi tối

Mỗi hạt quả chim ăn còn để lại

Này một niềm vui nho nhỏ trong tôi

Mái tăng che giấc mơ kỳ lạ của con người

Những - cây - lửa hừng trong đêm mất ngủ

Tàn lửa như sao băng tung toé khắp trời

Con heo rừng lồng lên chân mắc vào dây bẫy

Nồi cháo khuya cả đơn vị gật gù...

Những thăng trầm bao năm tháng chiến khu

Không dập nổi ngọn lửa đằm trong mắt

Lắm trận đói lắm trận càn thắt ngặt

Đêm lạc rừng võng buộc giữa chênh vênh

Nghe dế giun rên rỉ giọng thấp hèn

Thèm một tiếng chim bình minh như suối mát

 

Tôi đến đây thành rễ cây hút chặt

Với đất này-nhớ câu hát ngày xưa

“Lấy anh em biết ăn gì

Lộc sắn thì chát lộc si thì già”

Nhưng thương quá biết làm sao khác được

Có thể nào khác được nếu mình yêu.

Nghĩa trang trong rừng đước – Nguyễn Duy (năm 1977)

Ðắp cho anh nấm đất mặn nơi này

Nơi anh ngã muối ngấm vào vết đạn

Xót thịt xót xương, xót người nằm xuống

Thủy triều lên nấm mộ cũng ngập chìm

 

Rừng đước này chưa bao giờ lặng im

Lấn ra biển suốt ngàn năm bão táp

Người đất này chưa một ngày bình yên

Sống lau lách cả trăm năm giữ đất

 

Người còn sống đi đón người đã khuất

Xuống ghe đưa các anh về nghĩa trang

Từ hoang vắng mọi ngả rừng, gốc rạch

Các anh về đây ở thành xóm thành làng.

 

Mút mắt là biển khơi và rừng đước đại ngàn

Cồn cào gió và cồn cào sóng vỗ

Gốc đước già tạc mộ chí cho anh

Có đá của lòng người trong thớ gỗ.

 

Hàng chữ đọng sơn như mắt người ứa lệ

Như mắt người nhìn nhau

Như lời ai rơm rớm trên hàng hàng bia mộ

Có những người không quê ở Cà Mau!

Chút thơ tình người lính biển – Trần Đăng Khoa (năm 1981)

Anh ra khơi

Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng

Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng

Biển một bên và em một bên

 

Biển ồn ào, em lại dịu êm

Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ

Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía

Biển một bên và em một bên

 

Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn

Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc

Thăm thẳm nước trời, nhưng anh không cô độc

Biển một bên và em một bên

 

Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên

Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng

Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng

Biển một bên và em một bên

 

Vòm trời kia có thể sẽ không em

Không biển nữa. Chỉ mình anh với cỏ

Cho dù thế thì anh vẫn nhớ

Biển một bên và em một bên...

Bài học đầu cho con – Đỗ Trung Quân (đăng báo Khăn quàng đỏ năm 1986)

tho-ve-long-yeu-nuoc-voh-5
 

Quê hương là gì hở mẹ

Mà cô giáo dạy phải yêu

Quê hương là gì hở mẹ

Ai đi xa cũng nhớ nhiều

 

Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày

Quê hương là đường đi học

Con về rợp bướm vàng bay

 

Quê hương là con diều biếc

Tuổi thơ con thả trên đồng

Quê hương là con đò nhỏ

Êm đềm khua nước ven sông

 

Quê hương là cầu tre nhỏ

Mẹ về nón lá nghiêng che

Là hương hoa đồng cỏ nội

Bay trong giấc ngủ đêm hè

 

Quê hương là vòng tay ấm

Con nằm ngủ giữa mưa đêm

Quê hương là đêm trăng tỏ

Hoa cau rụng trắng ngoài thềm

 

Quê hương là vàng hoa bí

Là hồng tím giậu mồng tơi

Là đỏ đôi bờ dâm bụt

Màu hoa sen trắng tinh khôi

 

Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương có ai không nhớ…

Sẽ không lớn nổi thành người. 

Chủ nhật không bình yên – Nguyễn Trọng Tạo (năm 2011)

Chủ nhật không bình yên

Ngoài biển Đông vẫn nóng

Áp thấp từ nước lớn

Nóng lạnh tràn bốn phương

 

Chủ nhật không lên đường

Tay chân như bó buộc

Những biểu ngữ băng rôn

Cuộn tròn trong ấm ức

 

Những tấm lòng yêu nước

Rủ nhau cùng hát lên

Những bài ca phẫn uất

Gầm vang khắp ba miền

 

Ta con chiên Âu Lạc

Ta phật tử nước Nam

Ta dân trồng lúa nước

Ta con Rồng cháu Tiên

 

Hãy bóp nát quả cam

Khắc lời thề vệ quốc

Chủ nhật không bình yên

Những bóng ma xâm lược.

Mê Linh đổi mới – Chu Cường (năm 2013)

Tôi lớn lên trên quê hương yêu dấu

Đất Mê Linh truyền thống những anh hùng

Thủa Hai Bà khí phách dậy non sông

Cờ khởi nghĩa dâng cao lòng yêu nước

 

Bốn ngàn năm đất: “Địa linh, nhân kiệt”

Thật tự hào là con cháu tiên rồng

Đây sông Hồng dòng nước vẫn dịu hiền

Đã chứng kiến quê hương ta đổi mới

 

Đô thị xanh người dân đang mong đợi

Trên đường làng bê tông hóa thật nhanh

Bên đồng hoa, bên ruộng lúa rờn xanh.

Nông thôn mới phong trào đang phát triển.

Lòng yêu nước – Yêu Thoáng Qua (năm 2017)

Em thừa biết anh một lòng vì nước

Yêu non sông nên cất bước ra đi

Bởi hiếu trung luôn khắc dạ ôm ghì

Trí bền vững nén tình si gác lại.

 

Dù bão tố quyết không hề ngần ngại

Đuổi tà gian cố xâm hại quê mình

Việt Nam đầy dạ sắt thép kiên trinh

Há đâu sợ bọn phiến binh thác loạn.

 

Tiến lên trước dẫu mây mù lửa đạn

Đập tan tành lũ giặc hán cuồng ngôn

Ánh hào quang rọi chiếu sáng tâm hồn

Người chiến sĩ là đứa con nhân loại.

 

Hạnh phúc lắm thấy ngọn cờ biên ải

Phất phới bay khi đại thắng khải hoàn

Anh trở về dệt mộng ước kim loan

(Trung hiếu nghĩa phải chu toàn tất cả).

Những vần thơ về lòng yêu nước đã khép lại nhưng mở ra cho chúng ta trang sử hào hùng, vẻ vang của dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước của bao thế hệ cha ông. Từ đó thanh niên - những chủ nhân tương của đất nước thấy rằng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc không của riêng ai. Nó là quá trình đoàn kết bền bỉ, lâu dài của cả một dân tộc. Hãy yêu quê hương, đất nước như chính bản thân mình nhé!

Đừng quên cập nhật liên tục những bài viết mới nhất, hấp dẫn nhất tại VOH Sống đẹp.

Ảnh: Intermet

Bình luận