Chờ...

Giá cà phê hôm nay 2/8/2022: Giá trong nước ở mức cao

(VOH)-Giá cà phê ngày 2/8 đứng ở mức cao, giá cà phê nội địa đang khởi sắc, đang đứng ở mức cao nhất trong niên vụ này. USD đóng vai trò quan trọng trong hiện tượng giá tăng.

Giá cà phê trong nước sáng nay đứng giá, giá cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 44.500 đồng/kg, giá thấp nhất  tại tỉnh Lâm Đồng là 43.900 đồng/kg.

Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê ở Lâm Đồng, tại Bảo Lộc, Lâm Hà ở mức 44.000 đồng/kg, tại Di Linh ở ngưỡng 43.900 đồng/kg.

Giá cà phê tại Đắk Lắk, cụ thể ở tại Cư M'gar ở mức 44,500 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 44,400 đồng/kg.

Giá cà phê tại Gia Lai, giá ở Pleiku là 44,400 đồng/kg, và Ia Grai giao dịch quanh mức 44,400 đồng/kg.

Giá cà phê tại Đắk Nông, dao động ở ngưỡng 44,400 đồng/kg.

Giá cà phê tại Kon Tum, dao động ở mức 44,400 đồng/kg.

Giá cà phê giao tại cảng TP HCM, dao động ở ngưỡng 48,400 đồng/kg.

Tỉnh
/huyện (khu vực khảo sát)

Giá thu mua
Đơn vị: VNĐ/kg

Thay đổi

LÂM ĐỒNG

 

 

Bảo Lộc (Robusta)

44,000

0

Lâm Hà (Robusta)

44,000

0

 Di Linh (Robusta)

43,900

0

ĐẮK LẮK

 

 

Cư M'gar (Robusta)

44,5 00

0

Buôn Hồ (Robusta)

44,400

0

GIA LAI

 

 

Pleiku (Robusta)

44,400

0

Ia Grai (Robusta)

44,400

0

ĐẮK NÔNG

 

 

39,900

44,400

0

KON TUM

 

 

Đắk Hà (Robusta)

44,400

0

TP.HỒ CHÍ MINH

 

 

— R1

48,400

0

FOB (HCM)

2085

Trừ lùi: +55

 

Giá cà phê hôm nay 2/8/2022
Ảnh minh họa: internet

Theo chuyên gia Nguyễn Quang Bình, giá cà phê nội địa vẫn đang tăng dần, có lúc cà phê Robusta loại 2, tối đa 5% đen vỡ lên cận 46 triệu đồng/tấn giao hàng về các kho quanh TP Hồ Chí Minh. Đây là mức cao nhất trong niên vụ này.

Ông Bình phân tích, yếu tố tỷ giá VND/USD đóng vai trò quan trọng trong hiện tượng giá tăng trên thị trường nội địa. Một số nhà xuất khẩu mua đón chờ tỷ giá có lợi về sau (mang tính chất đầu cơ). Ngoài ra, hàng tồn kho tại các vùng nguyên liệu đã cạn. Mặt khác, giá xuất khẩu được tính trên cơ sở chênh lệch giữa giá niêm yết của sàn Robusta và giá nội địa cũng tăng tốt có lợi cho giá trong nước. Các nhà xuất khẩu hình như chỉ mua đón để chờ bán một khi tỷ giá tiền đồng có lợi.

Tổng cục Thông kê Việt Nam ước tính xuất khẩu cà phê trong tháng 7 đạt tổng cộng khoảng 2.083.333 bao, tăng 2,40% so với cùng kỳ năm trước. Do đó, tích lũy xuất khẩu cà phê trong 10 tháng đầu tiên của niên vụ hiện tại 2021/2022 đạt tổng cộng 22.160.410 bao, tăng 6,95% so với cùng kỳ niên vụ trước. Đồng thời, Tổng cục Thống kê Việt Nam cũng ước tính giá trị kim ngạch xuất khẩu cà phê trong 6 tháng đầu năm 2022 sẽ cao hơn 44,80% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt tổng cộng khoảng 2,60 tỷ USD.

Bộ Nông Nghiệp Mỹ (USDA) dự báo, sản lượng cà phê của Việt Nam đạt 30,9 triệu bao, giảm 700.000 bao so với vụ thu hoạch kỷ lục của năm ngoái. Diện tích canh tác được dự báo không thay đổi so với năm trước, với hơn 95% tổng sản lượng vẫn là robusta.

Mùa mưa bắt đầu sớm hơn những năm trước giúp cà phê ra hoa và phát triển tốt, đồng thời điều kiện thời tiết ẩm ướt hơn bình thường cũng giúp giảm chi phí tưới tiêu.

Thị trường cà phê Việt Nam trong nửa đầu năm 2022 nói chung và quý II nói riêng khá thuận lợi khi giá xuất khẩu tăng mạnh và hoạt động bán hàng của các doanh nghiệp thuận lợi. Điều này thể hiện trong con số kim ngạch và lượng xuất khẩu đạt kỷ lục.

Tuy nhiên, dự kiến trong thời gian tới, thị trường cà phê Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trước áp lực lạm phát ở các nước khu vực châu Âu, Mỹ đều tăng cao. Trong khi đó, đây đều là các thị trường quan trọng của ngành cà phê Việt Nam.

Ngoài ra, việc nâng lãi suất điều hành tại các nước tiêu thụ có khả năng ngăn trở các nhà nhập khẩu do phải cân đối tình hình tài chính và chi phí ngân hàng. Nhưng cước tàu mới chính là “biến số” khó đoán nhất của thị trường hàng hóa sau này.

Sự gián đoạn chuỗi cung ứng trên toàn thế giới do COVID-19 gây ra, cùng với sự thiếu hụt các tàu chở container mới, đã buộc các công ty phải tải các tàu cũ của họ lên mức kỷ lục để đáp ứng nhu cầu giao thương quốc tế.

Theo Công ty phân tích vận tải Clarksons Research, tổng công suất của đội tàu container của thế giới đã tăng trong thời kỳ đại dịch, tăng 2,9% vào năm 2020 sau khi tăng 4% vào năm 2019 và 5,6% vào năm 2018.

Mặc dù vậy Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia cho rằng, giá cà phê nội địa sẽ không theo giá phái sinh do các nhà kinh doanh tính lợi nhuận trên đồng ngoại tệ (USD) được giá khi thu về.

Giá cà phê thế giới trái chiều

Khảo sát phiên giao dịch sáng ngày 2/8, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London điều cvhinhr tăng phiên thứ sáu. Kỳ hạn giao ngay tháng 9 tăng thêm 1 USD, lên 2.031 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 11 không đổi, vẫn ở mức 2.028 USD/tấn, các mức tăng cực nhẹ. Khối lượng giao dịch duy trì trên mức trung bình. .

Trái lại, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York sụt giảm liên tiếp phiên thứ ba. Kỳ hạn giao ngay tháng 9 giảm thêm 4,00 cent, xuống 213,20 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 12 giảm thêm 3,80 cent, còn 210,00 cent/lb, các mức giảm khá mạnh. Khối lượng giao dịch rất cao trên mức trung bình.

Giá cà phê hôm nay 2/8/2022:  Giá trong nước ở mức cao do đầu cơ chờ tỷ giá 2
Giá cà phê hôm nay 2/8/2022:  Giá trong nước ở mức cao do đầu cơ chờ tỷ giá 3

Giá cà phê kỳ hạn tiếp tục diễn biến trái chiều phiên thứ ba liên tiếp, sụt giảm ở New York và duy trì đà tăng ở London.

Một khảo sát của Reuters cho ra kết quả giá cà phê cuối năm sẽ đứng ở mức thấp. Cà phê Arabica giảm 20% so với năm trước, xuống đứng ở 180 cent/lb. Cà phê Robusta giảm tương tự, xuống đứng ở 1.900 USD/tấn. Khảo sát cũng dự đoán niên vụ 2023/2024 của Brasil sẽ tăng lên 71 triệu bao, trên mức ước tính trung bình 63 triệu bao của niên vụ 2022/2023 hiện đang thu hoạch. Nhà sản xuất Robusta lớn nhất thế giới Việt Nam dự kiến sẽ đạt sản lượng 30 triệu bao trong niên vụ 2022/2023 thấp hơn một chút so với niên vụ trước.

Cơ quan Thương mại Indonesia báo cáo xuất khẩu cà phê Robusta của quốc đảo này trong tháng 6 đã tăng 86.677 bao, tức tăng 20,32% so với cùng kỳ năm trước, lên đạt 275.195 bao. Lũy kế xuất khẩu cà phê Robusta trong 9 tháng đầu niên vụ cà phê hiện tại 2021/2022 đạt tổng cộng 2.170.954 bao, giảm 553.806 bao, tức giảm 25,25% so với cùng kỳ niên vụ trước. Có thể thấy số liệu xuất khẩu được báo cáo có phần thấp hơn so với năm trước, nhưng khối lượng xuất khẩu trong 8 tháng qua được cho là phù hợp khi so sánh với mức trung bình 5 năm cùng kỳ.