Giá cà phê trong nước hôm nay cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk là 33.100 đồng/kg, giá thấp nhất tại tỉnh Lâm Đồng là 32.000 đồng/kg.
Cụ thể, mở cửa phiên giao dịch hôm nay giá cà phê tại Lâm Đồng đi ngang, tại Bảo Lộc, Lâm Hà ở mức 32.100 đồng/kg, tại Di Linh ở ngưỡng 32.000 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Lắk ổn định, cụ thể tại tại Cư M'gar ở mức 33.100 đồng/kg, tại Buôn Hồ giá cà phê ở ngưỡng 32.900 đồng/kg.
Giá cà phê tại Gia Lai cũng không đổi, giá tại Pleiku là 32.800 đồng/kg, và Ia Grai giao dịch quanh mức 32.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Đắk Nông cũng đứng giá, dao động ở ngưỡng 32.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại Kon Tum cũng đứng yên, dao động ở mức 32.600 đồng/kg
Giá cà phê giao tại cảng TP HCM đi ngang, dao động ở ngưỡng 34.300 đồng/kg.
Giá cà phê Robusta xuất khẩu loại 2, 5% đen vỡ, đứng ở 1.468 USD/tấn, FOB – HCM, với chênh lệch cộng ở mức 50 – 60 USD/tấn theo giá kỳ hạn tháng 7 tại London.
Tỉnh |
Giá thu mua |
Thay đổi |
LÂM ĐỒNG |
|
|
Bảo Lộc (Robusta) |
32,100 |
0 |
Lâm Hà (Robusta) |
32,100 |
0 |
Di Linh (Robusta) |
32,000 |
0 |
ĐẮK LẮK |
|
|
Cư M'gar (Robusta) |
33.100 |
0 |
Buôn Hồ (Robusta) |
32.900 |
0 |
GIA LAI |
|
|
Pleiku (Robusta) |
32,800 |
0 |
Ia Grai (Robusta) |
32,800 |
0 |
ĐẮK NÔNG |
|
|
Gia Nghĩa (Robusta) |
32,800 |
0 |
KON TUM |
|
|
Đắk Hà (Robusta) |
32.600 |
0 |
TP.HỒ CHÍ MINH |
|
|
— R1 |
34,300 |
0 |
Hải quan Việt Nam báo cáo dữ liệu sơ bộ cho thấy, xuất khẩu cà phê nửa đầu tháng 4/2021 đạt 55.847 tấn (khoảng 930.780 bao, bao 60 kg), giảm 32,35% so với cùng kỳ năm trước, đưa xuất khẩu cà phê 3,5 tháng đầu năm 2021 lên đạt tổng cộng 508.855 tấn (khoảng 8,84 triệu bao), giảm 15,12% so với xuất khẩu 3,5 tháng đầu năm 2020.
Thị trường cà phê sụt giảm là do tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 lên thị trường tiêu thụ toàn cầu trong thời gian vừa qua. Trong khi đó, người trồng cà phê ở Việt Nam cũng không tích cực bán hàng do giá kỳ hạn sàn London vẫn còn trì trệ, cho dù mức giá chênh lệch cộng được thị trường kéo dài với thời gian chưa từng thấy.
Hải Quan Việt Nam báo cáo dữ liệu sơ bộ cho thấy xuất khẩu cà phê, chủ yếu là Robusta, trong tháng 3 đạt 169.624 tấn (khoảng 2,83 triệu bao) tăng 38,10% so với tháng trước. Tuy nhiên lũy kế xuất khẩu 3 tháng đầu năm 2021 chỉ đạt 453.010 tấn (khoảng 7,55 triệu bao), giảm 12,20% so với cùng kỳ năm trước.
Giá cà phê thế giới trái chiều
Giá sàn New York điều chỉnh giảm khi kết thúc quyền chọn, trong khi London tiếp nối đà tăng do có sự hỗ trợ từ báo cáo xuất khẩu từ Việt Nam sụt giảm…
Giá cà phê mở cửa sáng nay 23/4, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London điều chỉnh giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 5 không đổi, vẫn ở mức 1.379 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 7 giảm 2 USD, xuống 1.408 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 9 giảm 3 USD, còn 1.424 USD/tấn, các mức giảm nhẹ. Khối lượng giao dịch khá cao trên mức trung bình.
Trái lại, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York trở lại đà tăng. Kỳ hạn giao ngay tháng 7 tăng 1,95 cent, lên 136,15 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 9 cũng tăng 1,95 cent, lên 138,05 cent/lb, các mức tăng rất đáng kể. Khối lượng giao dịch giảm xuống ở mức trung bình.
Đồng Reais tăng mạnh 1,65%, tỷ giá lên ở mức 1 USD = 5,4550 Reais. Tuy nhiên, USDX tiếp tục hồi phục nhẹ.
Giá cà phê Robusta trên sàn London chững lại trước áp lực đáo hạn hợp đồng quyền chọn kỳ hạn tháng 5 như đã suy đoán (đọc lại bản tin ngày hôm qua 22/04)
Trái lại, giá cà phê Arabica trên sàn New York trở lại đà tăng khi có sự hỗ trợ của đồng Reais mạnh lên khiến người Brasil giảm bán và báo cáo thời tiết có dấu hiệu khô hạn trước mùa đông năm nay làm dấy lên nổi lo mùa sương giá, đã kích thích đầu cơ sớm quay lại các thị trường cà phê phái sinh và đưa giá cà phê kỳ hạn tại New York lên mức cao 5 tuần.
Hiện nay, cà phê được sản xuất ở khoảng 70 quốc gia trên toàn thế giới. Trong đó, Brazil, Việt Nam, Colombia, Indonesia, Ethiopia, Honduras và Ấn Độ đang là các quốc gia sản xuất cà phê hàng đầu.