Kết quả kinh tế tăng trưởng tốt năm 2023
Theo dữ liệu của Tổng cục Thống kê (GSO) công bố vào cuối năm 2023, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế của Việt Nam đã tăng lên 6,72% so với cùng kỳ trong Quý 4 năm 2023, kéo dài đà tăng trong Quý 3 năm 2023 (5,33% so với cùng kỳ) và Quý 2 năm 2023 (4,14% so với cùng kỳ).
Kết quả vượt xa cuộc thăm dò của Bloomberg là 6,00% nhưng thấp hơn một chút so với dự đoán là 7,00% nhưng là một tín hiệu lạc quan trong một năm đầy thử thách.
Sự cải thiện trong Quý 4 năm 2023 được thúc đẩy từ sự phục hồi của khu vực sản xuất, ghi nhận quý thứ ba liên tiếp tăng trưởng sau mức giảm chưa từng có trong Quý 1 năm 2023, do hoạt động ngoại thương tăng trưởng trở lại và hoạt động kinh tế trong nước bao gồm dịch vụ và nông nghiệp cũng có kết quả tốt hơn nhờ các biện pháp chính sách hỗ trợ trong nước đã được triển khai trong năm.
Bất chấp khó khăn, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng 5,05% vào năm 2023, cao hơn một chút so với kỳ vọng là 5,00%. Kết quả thấp hơn so với kỳ vọng vào đầu năm phần lớn là do sự cản trở từ sáu tháng đầu năm 2023, điều này đã hạn chế kết quả hoạt động cả năm. Trong nửa đầu năm 2023, nền kinh tế Việt Nam chỉ tăng trưởng 3,72% so với cùng kỳ, thấp hơn đáng kể so với tốc độ 6,46% trong nửa đầu năm 2022.
Nhu cầu bên ngoài có dấu hiệu phục hồi
Động lực chính trong Quý 4 năm 2023 là sự đảo chiều của cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu từ mức giảm đã quay trở lại vùng tích cực trong các quý tiếp theo cùng với sự cải thiện trong hoạt động ngoại thương.
Khu vực dịch vụ (chiếm 43% tỷ trọng GDP) đóng góp phần lớn vào mức tăng trưởng trong Quý 4 năm 2023, trong khi khu vực công nghiệp (chiếm 35% tỷ trọng GDP) đã không còn giữ được vai trò truyền thống là động lực tăng trưởng chính, khi chỉ đóng góp một phần nhỏ vào mức tăng trưởng chung 6,72%.
Tất cả các sản phẩm xuất khẩu chủ lực, ngoại trừ “máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện”, đều giảm trong năm 2023. Trong đó, xuất khẩu của phân khúc điện thoại di động giảm gần 8% vào năm 2023 trong khi xuất khẩu dệt may, giày dép, cùng nhiều mặt hàng khác, giảm hai con số trong năm.
Xuất khẩu sang các thị trường lớn vẫn tiếp tục tăng trong năm 2023, mặc dù với tốc độ chậm hơn. Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, đạt 97 tỷ USD trong năm so với 87,9 tỷ USD vào năm 2022 với thị phần 27,4%.
Trung Quốc đạt 60,7 tỷ USD so với 55,1 tỷ USD vào năm 2022; thị phần 17% và Hàn Quốc đạt 23,4 tỷ USD so với 21,4 tỷ USD vào năm 2022. Bộ Công Thương đặt mục tiêu tăng xuất khẩu thêm 6% vào năm 2024, với thặng dư thương mại dự kiến sẽ kéo dài năm thứ 9 liên tiếp.
Đặc biệt, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt mức cao kỷ lục 23,2 tỷ USD vào năm 2023, vượt qua kỷ lục trước đó là 22,4 tỷ USD vào năm 2022. Dòng vốn FDI đăng ký vào năm 2023 đã tăng 32% lên 36,6 tỷ USD từ 27,7 tỷ USD vào năm 2022, gần bằng mức cao kỷ lục 38 tỷ USD vào năm 2019.
Theo UOB, các chỉ số này cho thấy các doanh nghiệp tiếp tục coi Việt Nam là điểm đến đầu tư quan trọng trong trung và dài hạn, trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang diễn ra quá trình tái cấu trúc.
Sự gia tăng cả dòng vốn FDI giải ngân thực tế và đăng ký sẽ thúc đẩy hơn nữa các hoạt động trong nước trong các quý tới, bao gồm cả xây dựng và việc làm. Hơn hết, sự khẳng định niềm tin và cam kết của các doanh nghiệp nước ngoài đối với đất nước trong làn sóng phi toàn cầu hóa, giảm thiểu rủi ro và chuyển dịch chuỗi cung ứng hiện nay.
Ở khu vực trong nước, chi tiêu của người tiêu dùng đã ổn định vào nửa cuối năm 2023, với tổng doanh số bán lẻ tăng 9,6% so với tốc độ 19,8% vào năm 2022, do lệnh phong tỏa vì Covid-19 trong năm 2022 đã dẫn đến những biến động lớn trong hành vi chi tiêu.
Chi tiêu bán lẻ liên quan đến du lịch tiếp tục là điểm sáng với mức tăng hai con số trong hầu hết năm 2023 khi lượng du khách đến đạt tổng cộng 12,6 triệu, tương đương khoảng 70% so với con số 18 triệu du khách vào năm 2019. Với đà tăng của lượng du khách đến từ nhiều nguồn chính khác nhau, nhiều khả năng lượng du khách năm nay sẽ vượt mức cao điểm của năm 2019.
Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam được giữ ổn định ở mức 3,25% so với cùng kỳ năm 2023, đạt mục tiêu chính thức đề ra, so với mức 3,15% vào năm 2022. Đáng chú ý là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam bắt đầu tăng tốc từ giữa năm 2023 lên khoảng 3,0%, mặc dù được tính toán dựa trên mức giá cơ sở cao hơn nhiều vào năm 2022.
Việc này cho thấy mức độ “liên kết” của chỉ số CPI, có nghĩa là tỷ lệ lạm phát có thể vẫn là mối lo ngại trong những tháng tới, đặc biệt với mức tăng lương tối thiểu 6% dự kiến diễn ra từ tháng 7/2024, mức tăng lớn hơn một chút so với mức 5,88% vào tháng 7/2022. Việt Nam đã tăng mức lương tối thiểu lần lượt là 7,3%, 6,5% và 5,3% vào các năm 2017, 2018 và 2019.
Dự báo triển vọng sẽ tươi sáng trong năm 2024
Dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024, chuyên gia Ngân hàng UOB đưa ra cái nhìn lạc quan về triển vọng cải thiện tăng trưởng GDP. Đánh giá Việt Nam đã kết thúc năm 2023 với kết quả đầy hy vọng, các chuyên gia nhìn nhận việc đạt mức tăng trưởng 5,05% do chịu sức ép từ nhu cầu bên ngoài bị suy yếu và trên nền cơ sở tăng cao trong năm trước.
Trong năm 2024, chuyên gia UOB cho rằng vẫn còn nhiều thách thức và bất lợi do những bất ổn và rủi ro phát sinh từ các cuộc xung đột quân sự đang diễn ra ở những nơi khác trên thế giới, những tranh chấp địa chính trị giữa các cường quốc và môi trường lãi suất cao.
Thứ nhất, xung đột quanh khu vực Biển Đỏ – chiếm 12% thương mại toàn cầu với 17.000 tàu đi qua hàng năm – đã khiến các công ty vận tải toàn cầu phải định tuyến lại quanh Mũi Hảo Vọng, do đó kéo dài hành trình, gây ra sự chậm trễ trong vận chuyển, làm cho chi phí giao hàng cao hơn và sự gián đoạn trong mạng lưới vận chuyển.
Điều này sẽ gây tổn hại không chỉ cho người tiêu dùng và người sử dụng cuối cùng, mà cả các nhà xuất khẩu, nhà sản xuất và chuỗi cung ứng trên toàn thế giới, bao gồm cả Việt Nam, vì các đơn đặt hàng sẽ bị ảnh hưởng bởi sự chậm trễ và chi phí cao hơn, và do đó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất.
Cũng theo chuyên gia, một yếu tố khác cần xem xét là việc thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu (GMT) tại Việt Nam đối với các doanh nghiệp đa quốc gia (MNE), có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2024. Chính phủ Việt Nam ước tính rằng 122 công ty nước ngoài sẽ bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi này, với mức tăng doanh thu thuế hàng năm là 14,6 nghìn tỷ đồng (601 triệu USD) cho nhà nước.
Vấn đề quan trọng hơn là các ưu đãi thuế khác nhau như thuế suất ưu đãi, miễn thuế, cùng nhiều ưu đãi khác dành cho các MNE đã giúp giảm thuế suất doanh nghiệp xuống 20%. Với sự thay đổi hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các MNE sẽ cần tính đến chi phí thuế cao hơn trong kế hoạch kinh doanh trong tương lai của mình. Điều quan trọng là phải thực hiện các biện pháp để bù đắp GMT, chẳng hạn như giảm chi phí và nâng cao năng suất lao động, nhằm duy trì khả năng cạnh tranh của Việt Nam như một điểm đến đầu tư.
Hiện tại, triển vọng của Việt Nam được củng cố nhờ sự phục hồi nhu cầu ngành bán dẫn, tăng trưởng ổn định ở Trung Quốc và khu vực, cũng như sự chuyển dịch chuỗi cung ứng phần lớn có lợi cho Việt Nam và các nước ASEAN khác.
Ngân hàng UOB dự báo tăng trưởng của Việt Nam ở mức 6,0% cho năm 2024, nằm trong mục tiêu chính thức là 6,0-6,5%. Dự đoán áp lực lạm phát sẽ tiếp tục tăng, với dự báo CPI sẽ tiếp tục tăng ở mức 3,7% vào năm 2024, từ mức 3,25% vào năm 2023.
NHNN giữ lãi suất ổn định cho hiện tại
Đối với chính sách tiền tệ, UOB đánh giá Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phản ứng nhanh vào đầu năm 2023 trước tình trạng suy thoái kinh tế và những thách thức với các đợt cắt giảm lãi suất liên tiếp nhanh chóng. Lần giảm lãi suất chính sách cuối cùng diễn ra vào tháng 6/2023 khi lãi suất tái cấp vốn được cắt giảm tổng cộng 150 điểm cơ bản, xuống còn 4,50%.
Hiện tốc độ hoạt động kinh tế đang phục hồi và triển vọng tốt hơn vào năm 2024, khả năng cắt giảm lãi suất hơn nữa đã giảm đi. Vì vậy, UOB cho rằng Ngân hàng Nhà nước sẽ duy trì lãi suất tái cấp vốn ở mức hiện tại là 4,50%.
Một tín hiệu nữa là việc sửa đổi gần đây của Luật Các tổ chức tín dụng, có hiệu lực từ ngày 1/ 7/2024. Luật sửa đổi tạo khuôn khổ cho các khoản vay đặc biệt từ Ngân hàng Nhà nước, bao gồm các khoản vay không lãi suất và các khoản vay không cần thế chấp, từ đó có thể hướng tới các mục tiêu chính sách cụ thể cho phép hỗ trợ các lĩnh vực quan trọng và để triển khai hoạt động thanh khoản khẩn cấp khi cần thiết, chẳng hạn như các trường hợp rút tiền hàng loạt tại ngân hàng.
Điều này phản ánh cam kết và các phương tiện của Chính phủ trong việc hỗ trợ các lĩnh vực quan trọng và ứng phó với các tình huống khẩn cấp.
Đến cuối năm 2023, tín dụng ngân hàng đã tăng 13,5% so với cùng kỳ, thấp hơn một chút so với mục tiêu 14%-15% đặt ra cho năm, do cơ quan quản lý yêu cầu các ngân hàng đơn giản hóa thủ tục cho vay và cải thiện khả năng tiếp cận các khoản vay ngân hàng của doanh nghiệp.
Năm 2024, Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng tín dụng lên khoảng 15% với khả năng điều chỉnh linh hoạt dựa trên diễn biến kinh tế trong năm.