Người yêu thơ Trung Hoa xếp Bạch Cư Dị chỉ sau “thi tiên” Lý Bạch và “thi thánh” Đỗ Phủ. Vậy thơ ca Bạch Cư Dị có gì đặc sắc mà được đánh giá cao đến vậy? Mời bạn cùng tìm hiểu về cuộc đời và tác phẩm của thi sĩ Bạch Cư Dị qua bài viết dưới đây.
1. Bạch Cư Dị là ai?
Bạch Cư Dị (白居易) sinh ngày 28 tháng 2 năm 772 SCN tại Hà Nam, tên tự là Lạc Thiên (樂天). Tổ tiên ông là người Thái Nguyên, Sơn Tây sau này di cư tới Hạ Khê, Vị Nam, Thiểm Tây (nay là tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc).
Bạch Cư Dị sinh ra trong gia đình quan lại nhỏ, trong thời kỳ Mạt Đường. Ông ra đời vào lúc mà chính quyền trung ương của họ Lý đã suy yếu sau loạn An Lộc Sơn, vì thế xã hội nhà Đường lúc bấy giờ không còn được như thời đỉnh cao, các mâu thuẫn trong xã hội đã khá gay gắt, hoàn cảnh của cuộc sống lúc bấy giờ đã ảnh hưởng khá lớn đến tư tưởng trong các tác phẩm của Bạch Cư Dị.
Từ nhỏ, vì loạn lạc mà gia đình Bạch Cư Dị phải di cư đến miền quê nghèo để sinh sống, chứng kiến người dân lầm than đói khổ đã tác động lớn đến quá trình trưởng thành của ông. Tuy trong thời buổi loạn lạc nhưng ông được giáo dục rất tốt, từ nhỏ đã chứng tỏ mình là người thông minh, 9 tuổi ông đã hiểu âm vận, 15 tuổi bắt đầu làm thơ, tuy vậy vì các biến cố trong cuộc sống mà đến năm 800 (28 tuổi) ông mới đậu tiến sĩ và được bổ nhiệm làm Tả thập di ở triều đình của hoàng đế Đường Đức Tông (Lý Quát).
Năm 815, vì hạch tội nhóm quyền thần mà ông bị giáng chứng, rời khỏi kinh thành Trường An biếm về làm Tư mã Giang Châu. Cũng vì không hợp với các quyền thần bấy giờ mà quan lộ của Bạch Cư Dị phải chịu nhiều phen lao đao.
Năm 820, ông được điều về kinh thành làm quan dưới thời vua Đường Mục Tông (Lý Hằng). Tuy nhiên vì chán ngán trước triều đình kết bè kéo cánh tranh quyền đoạt lợi, ông dâng sớ để được đi làm quan ở Hà Bắc, sớ không được chấp nhận, ông quyết định tự rời kinh đô.
Năm 822 ông được cử làm Thứ sử Hàng Châu. Năm 825 làm Thứ sử Tô Châu. Ở những địa phương này ông đều dụng công làm thủy lợi. Những công trình mà ông cho khởi công xây dựng đã giúp dân chúng có thể yên tâm sinh sống, làm ruộng vì thế dân chúng rất kính yêu ông.
Sau này ông được triệu về kinh nhận chức Thái tử Thiếu phó, đến năm 842 Bạch Cư Dị về hưu khi đang đảm nhận chức Hình bộ Thượng thư.
Năm 846 ông mất ở Hương Sơn, Lạc Dương, thọ 70 tuổi ở thời vua Đường Tuyên Tông (Lý Thầm). Khi ông mất Tuyên Tông có làm bài thơ điếu để tỏ lòng thương tiếc như sau:
"Sáu mươi năm sáng tác ngọc liền châu,
Ai đã chỉ đường làm thi tiên?
Phù vân không gắn tên Cư Dị,
Tạo hóa vô vi tự Lạc Thiên.
Đồng Tử ngâm nga Trường hận khúc,
Hồ nhi ca hát tỳ bà thiên.
Văn chương đã đến cùng trăm họ.
Mỗi độ nhớ khanh trẫm đau buồn."
Những năm cuối đời Bạch Cư Dị chú tâm nghiên cứu Phật pháp ở Hương Sơn, Lạc Dương vì thế được mệnh danh (tự xưng) là Hương Sơn cư sĩ (香山居士). Ông còn có những tên hiệu khác như Túy ngâm tiên sinh (醉吟先生) hay Quảng Đại giáo hóa chủ (廣大教化主).
2. Phân tích hồn thơ đậm màu sắc hiện thực cuộc sống trong thơ ca Bạch Cư Dị
Khác với chủ nghĩa lãng mạn trong thơ của “thi tiên” Lý Bạch, Bạch Cư Dị kế thừa chủ nghĩa hiện thực của “thi thánh” Đỗ Phủ - có lẽ vì cuộc đời cũng trải qua nhiều thăng trầm, tuy vậy thơ ông không trầm uất, nghẹn ngào như thơ của "thi thánh" Đỗ Phủ mà thường là châm biếm, mỉa mai nhẹ nhàng. Các tác phẩm của ông luôn thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn với phong cách thơ ca giản dị, mang hơi thở của cuộc sống, phản ánh đời sống khổ cực của các tầng lớp dân chúng thấp kém.
Vì chủ đề gần gũi và lời thơ bình dị nên các tác phẩm của ông rất phổ biến trong dân gian, đương thời lúc ông còn sống thơ ca của ông đã phổ biến khắp Đại Đường và có ảnh hưởng đến các nước lân bang như Cao Ly, Đại Việt, Tân La, Nhật Bản,...
Một số tác phẩm nổi bật của Bạch Cư Dị nói về hiện thực cuộc sống dân chúng có thể kể đến như Tỳ bà hành, Quan ngải mạch, Mại thán ông, Liễu lăng,....
Trong bài thơ Quan ngải mạch (Xem gặt lúa) Bạch Cư Dị kể về đời sống gian truân vất vả của người nông dân. Trong bài thơ ông bày tỏ tâm trạng xấu hổ vì bản thân nhận bổng lộc 1 năm tới “300 phương gạo” (1 phương gạo = 12kg gạo) khi mà người nông dân còn phải đi lượm từng bông lúa sau mùa gặt.
Bài thơ Quan Ngải Mạch - Bạch Cư Dị - Hoàng Tạo dịch
Nhà nông ít tháng rỗi,
Tháng năm càng rộn ràng.
Đêm qua gió nam thổi,
Lúa chín lợp bờ vàng.
Thúng cơm các bà đội,
Bầu nước trẻ con mang.
Theo đem cơm ra ruộng
Trai tráng trên gò nam.
Chân bỏng sôi hơn đất,
Cật cháy ánh mặt trời.
Mải miết không biết nóng,
Chỉ tiếc ngày hè dài.
Lại có một bà nghèo,
Ôm con đứng bên cạnh,
Tay phải nhặt bông rơi,
Tay trái đeo giỏ rách.
Thoáng chuyện bà mới góp,
Người nghe thấy bồi hồi:
“Ruộng nhà bán nộp thuế,
Mót chút để cầm hơi!”
Nay mình công cán gì?
Việc nông tang chẳng biết,
Lương hưởng ba trăm phương,
Cuối năm ăn chẳng hết.
Nghĩ lại thấy thẹn thùng,
Suốt ngày lòng bứt rứt.
Hay bài thơ Ông bán than (Mại thán ông) nổi tiếng ông làm để miêu tả công việc kiếm sống khổ cực của người bán than lương thiện. Làm việc vất vả là thế nhưng khi gặp quyền thế bức ép, “ngàn cân than” đổi lấy “Nửa tấm lụa hồng, một trượng the” thì chỉ biết tiếc nhưng chẳng làm gì được.
Mại thán ông - Bạch Cư Dị - Hoàng Tạo dịch
Ông bán than!
Đốt củi đốt than trong núi Nam,
Mặt mày tro bụi khói lửa ám,
Mái tóc hoa râm tay đen ngòm!
Bán than được tiền ông tính toán:
Phần sắm quần áo, phần gạo cơm.
Thương thay! Trên mình áo mỏng dính,
Lòng lo than rẻ, mong trời lạnh!
Đêm qua ngoài thành tuyết hàng thước,
Sớm đánh xe than, rãnh băng ướt,
Trâu mỏi, người đói, mặt trời cao,
Bùn lầy cửa Nam tạm nghỉ bước.
Băng băng đôi ngựa, kìa ai nhỉ?
Áo vàng, áo trắng hai quan thị.
Tay giơ giấy tờ, mồm quát: “Sắc!”
Quay xe hò trâu kéo về bắc.
Một xe than nặng hơn ngàn cân,
Người nhà vua lấy, tiếc chẳng được.
Nửa tấm lụa hồng, một trượng the,
Buộc lên sừng trâu, không lấy? Mặc!
Trong bài bài Liễu lăng Bạch Cư Dị hỏi những người “múa hát ở Cung Chiêu Dương” (ý chỉ những người giàu, có quyền thế) có buông lời thở than khi nhìn những tấm lụa đẹp đẽ sinh ra từ công sức vất vả của người thợ dệt lụa ở Giang Nam:
Bạch Cư Dị - Liễu lăng - Ngô Văn Phú dịch
Thấy chăng ai, vẻ màu lụa nõn?
Chẳng giống the, lụa mỏng cũng không.
Núi Thiên Thai, trước ánh trăng,
Thác cao trắng xoá, bốn lăm thước dài.
Hoa văn in, đẹp tươi lạ mắt,
Như khói lan, hoa tuyết bay bay.
Lụa ai dệt? Áo cho ai?
Dệt là gái Việt, áo may phi tần.
Năm ngoái lệnh vua ban, sứ đến,
Mẫu từ trời, thợ kén trong dân.
Nhạn bay, ngoài cõi mây vần,
Giang Nam, màu nước mùa xuân nhuộm mềm.
Tay áo rộng, may quần đúng kiểu,
Sáng sao Kim, sao Đẩu vào đêm.
Hoa lay khi lụa soi nghiêng,
Chiêu Dương người múa, ơn trên cao dầy.
Nghìn vàng tấm áo này nên giá,
Phấn nhoè, mồ hôi vã đắng cay.
Dầm bùn đất, vẫn mê say,
Dệt nên lụa nõn, đêm ngày gắng công.
Những tơ lụa tầm thường khó sánh,
Tay nhức vì sợi mảnh, khâu dầy.
Chiêu Dương múa hát là ai?
Thấy người dệt, hẳn buông lời thở than.
Hoặc một trong những bài thơ được yêu thích nhất của ông là Tỳ bà hành được viết để cảm thương cho cuộc sống lênh đênh lưu lạc giang hồ của thân phận con hát hèn mọn trong xã hội bấy giờ.
Đoạn dẫn bài thơ Tỳ bà hành do chính Bạch Cư Dị chấp bút:
Năm Nguyên Hòa thứ 10, ta về giữ chức tư mã ở quận Cửu Giang (Giang Châu). Qua mùa thu năm sau, đêm ra tiễn khách bên bến sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn tỳ bà vọng lại. Nghe trong tiến đàn thánh thót, âm vang điệu nhạc ở kinh đô. Bèn hỏi gốc gác. Người đàn bà trả lời rằng “Tôi vốn là con hát, quê ở Trường An, học đàn tỳ bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay tuổi đã cao, nhan sắc tàn tạ, lấy chồng làm con buôn (thường theo thuyền buôn đi đây đi đó)”. Nghe vậy, cho dọn rượu ra đãi, xin nàng đàn lại cho nghe. Lúc đàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời mình từ lúc còn trẻ, vui sướng, cho tới lúc lưu lạc giang hồ khổ nhọc. Ta về đây làm quan đã được hai năm thanh thản yên ổn. Hôm nay nghe nàng này nói chuyện, cảm thương cho số phận lưu đày! Bèn làm một bài thơ dài tặng nàng ta, gồm 616 chữ, gọi là Tỳ bà hành.
Tỳ bà hành - Bạch Cư Dị - Phan Huy Thực dịch
Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.
Say những luống ngại khi hầu rẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông,
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.
Lần tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh.
Dời thuyền theo hỏi thăm tình,
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.
Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
Vặn đàn vài tiếng dạo qua,
Tuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay.
Nghe não nuột mấy dây bứt rứt,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu.
Chau mày, tay gảy khúc sầu,
Giãi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn.
Ngón buông, bắt, khoan khoan dìu dặt,
Trước “Nghê thường”, sau thoắt “Lục yêu”.
Dây to nhường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lần chen liền gảy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa, oanh ríu rít nhau,
Suối tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh.
Tiếng suối lạnh, dây mành ngừng tắt,
Ngừng tắt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, đau giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng lẽ bấy giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước,
Ngựa sắt giong, thét ngược tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông.
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
Áo xiêm khép nép hầu mong giải lời.
Rằng xưa vốn là người kẻ chợ,
Cồn Hà Mô trú ở lân la.
Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên.
Gã thiện tài sợ phen dừng khúc,
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô.
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn.
Vành lược bạc gãy tay nhịp gõ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Năm năm lần lữa vui cười,
Mải gió trăng chẳng đoái hoài xuân thu.
Buồn em trẩy, lại sầu dì thác,
Lần hôm mai đổi khác hình dung.
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết đôi cùng khách thương.
Khách trọng lợi khinh thường ly cách,
Mải buôn chè, sớm tếch miền khơi.
Thuyền không đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng.
Ðêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ,
Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son.
Nghe đàn ta đã chạnh buồn,
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời.
Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc võ nảy mầm quanh hiên.
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,
Cuốc kêu sầu, vượn hót nỉ non.
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,
Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng.
Há chẳng có ca rừng địch nội,
Giọng líu lo, nhiều nỗi khó nghe.
Tiếng tỳ nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca.
Tần ngần dường cảm lời ta,
Dén ngồi bắt ngón đàn đà kíp dây.
Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi.
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.
Có thể thấy dù đi đâu, làm gì thì Bạch Cư Dị luôn hòa nhập và chú tâm quan sát cuộc sống của nhân dân. Sự quan sát thường xuyên đó đã giúp ông hiểu và cảm thấy xót xa cho thân phận con người trong xã hội phong kiến để từ đó thai nghén ra những bài thơ tuyệt phẩm nói lên tiếng lòng, tiếng thở than, ngậm ngùi của người dân thấp kém. Đồng thời những bài thơ ấy cũng rung lên hồi chuông cảnh báo cho vua chúa, quan lại, giai cấp thống trị biết mà tự sửa mình.
Xem thêm:
Tổng hợp 46 bài thơ Đường hay nhất mọi thời đại
25 bài thơ tình bất hủ Việt Nam, những áng thơ tình yêu bất diệt
Tổng hợp 3254 câu thơ Kiều của đại thi hào Nguyễn Du
3. Danh sách tác phẩm của nhà thơ Bạch Cư Dị
Bạch Cư Dị để lại cho đời sau số lượng tác phẩm đồ sộ lên tới gần 2.800 tác phẩm, phần lớn trong đó là thơ ca. Những tác phẩm tiêu biểu của ông có thể kể đến như:
- Hậu cung từ
- Phú đắc cổ nguyên thảo tống biệt
- Trường hận ca
- Tỳ bà hành
- Vấn Lưu thập cửu
- Vọng nguyệt hữu cảm
- Tử vi hoa
- Ức giang liễu
- Hoa phi hoa
- Trường tương tư
- Đại Lâm Tự đào hoa
Các tác phẩm khác:
DANH SÁCH TÁC PHẨM CỦA BẠCH CƯ DỊ
- Bạch lộ
- Bách luyện kính
- Bạch Vân tuyền
- Bản kiều lộ
- Bành Lễ hồ vãn quy
- Bát nguyệt thập ngũ nhật dạ cấm trung độc trực, đối nguyệt ức Nguyên Cửu
- Bát tuấn đồ
- Bệnh trung họa Tây phương biến tương tụng
- Bồ Đề tự thượng phương vãn diểu
- Bội hoàng
- Ca vũ
- Cảm cố Trương bộc xạ chư kỹ
- Cảm hạc
- Cảm Hoá tự kiến Nguyên, Lưu đề danh
- Cảm kính
- Cấm trung
- Cần Chính lâu tây lão liễu
- Chân nương mộ
- Chiêu đông lân
- Chiêu Quân từ kỳ 1
- Chiêu Quân từ kỳ 2
- Chu trung dạ vũ
- Chu trung độc Nguyên Cửu thi
- Chủng lệ chi
- Cửu bất kiến hàn thị lang, hí đề tứ vận dĩ ký chi
- Cửu niên thập nhất nguyệt nhị thập nhất nhật cảm sự nhi tác (Kỳ nhật độc du Hương Sơn tự)
- Dạ tranh
- Dạ tuyết
- Dạ vũ
- Đại Lâm tự đào hoa
- Đại lân tẩu ngôn hoài
- Đại mại tân nữ tặng chư kỹ
- Đáp Vi Chi
- Đề Lệnh Hồ gia mộc lan hoa
- Di Ái tự
- Dĩ kính tặng biệt
- Diêm thương phụ
- Đỗ Lăng tẩu
- Đồ Sơn tự độc du
- Độc Lão Tử
- Độc Trang Tử
- Đối tửu kỳ 4
- Đông chí túc Dương Mai quán
- Đông dạ văn trùng
- Đông đình nhàn vọng
- Đồng Lý Thập Nhất tuý ức Nguyên Cửu
- Dư Hàng hình thắng
- Dữ Mộng Đắc cố tửu nhàn ẩm, thả ước hậu kỳ
- Du tiểu Động Đình
- Du Triệu thôn hạnh hoa
- Du Vân Cư tự tặng Mục tam thập lục địa chủ
- Dục dữ nguyên bát bốc lân, tiên hữu thị tặng
- Dương liễu chi bát thủ kỳ 1
- Dương liễu chi bát thủ kỳ 2
- Dương liễu chi bát thủ kỳ 3
- Dương liễu chi bát thủ kỳ 4
- Dương liễu chi bát thủ kỳ 5
- Dương liễu chi bát thủ kỳ 6
- Dương liễu chi bát thủ kỳ 7
- Dương liễu chi bát thủ kỳ 8
- Dương liễu chi nhị thủ kỳ 1
- Dưỡng trúc ký
- Giang lâu vãn thiếu cảnh vật tiên kỳ ngâm ngoạn thành thiên ký Thuỷ bộ Trương Tịch viên ngoại
- Giang Nam tống bắc khách nhân bằng ký Từ Châu huynh đệ thư
- Giang thượng địch
- Giang thượng ngâm Nguyên bát tuyệt cú
- Hà đình tình vọng
- Hà Mãn Tử
- Hạ vũ
- Hắc đàm long
- Hải man man
- Hàm Đan đông chí dạ tư gia
- Hàn khuê oán
- Hàn thực dã vọng ngâm
- Hàng Châu xuân vọng
- Hạnh Viên hoa hạ tặng Lưu lang trung
- Hạo ca hành
- Hậu cung oán
- Hậu cung từ
- Hí đáp chư thiếu niên
- Hí đề tân tài tường vi
- Hồ tuyền nữ
- Hoạ đáp thi kỳ 4 - Hoạ đại chuỷ ô
- Hoạ Đỗ lục sự đề hồng diệp
- Hoạ Dương thượng thư bãi tướng hậu hạ nhật du Vĩnh An thuỷ đình, kiêm chiêu bản Tào Dương thị lang đồng hành
- Hoa phi hoa
- Hoạ trúc ca
- Hồng anh vũ (Thương Sơn lộ phùng)
- Hồng tuyến thảm
- Hung trạch
- Hương Lô phong hạ tân bốc sơn cư, thảo đường sơ thành, ngẫu đề đông bích kỳ 1
- Hương Lô phong hạ tân bốc sơn cư, thảo đường sơ thành, ngẫu đề đông bích kỳ 4
- Hương Sơn tị thử kỳ 2
- Hữu mộc kỳ 7 - Lăng tiêu hoa
- Hữu nhân dạ phỏng
- Hỷ bãi quận
- Khách trung nguyệt
- Khán thái liên
- Khốc Hoàng Phủ thất lang trung Thực
- Khốc Lưu Đôn Chất
- Khốc Lưu thượng thư Mộng Đắc kỳ 1
- Khốc Lưu thượng thư Mộng Đắc kỳ 2
- Khúc giang hữu cảm
- Khúc giang tuý hậu tặng chư thân cố
- Khúc giang ức Nguyên Cửu
- Khuê oán từ kỳ 1
- Khuê oán từ kỳ 2
- Khuê oán từ kỳ 3
- Khuê phụ
- Khuyến tửu
- Kiến Doãn Công Lượng tân thi ngẫu tặng tuyệt cú
- Kiến Xương giang
- Ký n Hiệp Luật
- Ký Đường Sinh
- Ký Dương Vạn Châu Tứ Vọng lâu
- Ký Tương Linh
- Ký Vi Chi kỳ 1
- Ký Vi Chi kỳ 2
- Ký Vi Chi kỳ 3
- Lạc Dương tảo xuân
- Lâm Đô dịch đáp Mộng Đắc
- Lâm giang tống Hạ Chiêm
- Lam Kiều dịch kiến Nguyên Cửu thi
- Lãm Lư Tử Mông thị ngự cựu thi, đa dữ Vi Chi xướng hoạ, cảm kim thương tích, nhân tặng Tử Mông, đề ư quyển hậu
- Lãng đào sa kỳ 1
- Lãng đào sa kỳ 2
- Lãng đào sa kỳ 3
- Lãng đào sa kỳ 4
- Lãng đào sa kỳ 5
- Lãng đào sa kỳ 6
- Liễu lăng
- Lĩnh thượng vân
- Lưỡng chu các
- Luy tuấn
- Lý Bạch mộ
- Lý đô uý cổ kiếm
- Mại thán ông
- Mẫu biệt tử
- Mộ giang ngâm
- Mộ lập
- Mộng Vi Chi
- Nam Phố biệt
- Ngoạn tân đình thụ, nhân vịnh sở hoài
- Nguỵ vương đê
- Nhàn cư
- Nhân định
- Nhàn tịch
- Nhuận cửu nguyệt cửu nhật độc ẩm
- Niệm Phật ngâm
- Phiếm Thái Hồ thư sự, ký Vi Chi
- Phọc nhung nhân
- Phóng lữ nhạn
- Phóng ngôn kỳ 1
- Phóng ngôn kỳ 3
- Phong vũ vãn bạc
- Phú đắc cổ nguyên thảo tống biệt
- Phú đắc thính biên hồng
- Phủ tây trì
- Quan du ngư
- Quan ngải mạch
- Quan ngưu
- Sinh ly biệt
- Sơn giá cô
- Sơn hạ túc
- Tầm Dương xuân (Nguyên Hoà thập nhị niên tác) kỳ 1: Xuân sinh
- Tầm Dương xuân (Nguyên Hoà thập nhị niên tác) kỳ 2: Xuân lai
- Tầm Dương xuân (Nguyên Hoà thập nhị niên tác) kỳ 3: Xuân khứ
- Tam niên biệt
- Tầm quách đạo sĩ bất ngộ
- Tần Cát Liễu
- Tân chế bố cừu
- Tân Phong chiết tý ông
- Tần trung ngâm kỳ 01 - Nghị hôn
- Tần trung ngâm kỳ 02 - Trọng phú
- Tần trung ngâm kỳ 03 - Thương trạch
- Tần trung ngâm kỳ 04 - Thương hữu
- Tần trung ngâm kỳ 05 - Bất trí sĩ
- Tần trung ngâm kỳ 06 - Lập bi
- Tần trung ngâm kỳ 07 - Khinh phì
- Tần trung ngâm kỳ 08 - Ngũ huyền
- Tần trung ngâm kỳ 09 - Ca vũ
- Tần trung ngâm kỳ 10 - Mãi hoa
- Tặng Dương bí thư Cự Nguyên
- Tặng nội (I)
- Tặng nội (II)
- Tặng Quan Miến Miến
- Tặng Tiết Đào
- Tặng Vương sơn nhân
- Tảo thu độc dạ
- Tây Hồ lưu biệt
- Tây hồ vãn quy hồi vọng cô sơn tự tặng chư khách
- Tây Lương kỹ
- Thái địa hoàng giả
- Thái Hàng lộ
- Thái liên khúc
- Thanh thạch
- Thất đức vũ
- Thất tịch
- Thính lô quản
- Thôn cư khổ hàn
- Thôn dạ
- Thu giang tống khách
- Thù Lý thập nhị thị lang
- Thu mộ giao cư thư hoài
- Thù Mộng Đắc tỉ huyên thảo kiến tặng
- Thu sơn
- Thù tặng Lý Luyện Sư kiến chiêu
- Thư Thiên Trúc tự
- Thu tịch
- Thu trùng
- Thu tứ
- Thu vũ dạ miên
- Thượng Dương nhân
- Thương Sơn lộ hữu cảm
- Thương xuân khúc
- Tích mẫu đơn hoa kỳ 1
- Tích mẫu đơn hoa kỳ 2
- Tiền Đường hồ xuân hành
- Tỉnh để dẫn ngân bình
- Tống Tiêu xử sĩ du kiềm nam
- Tống Vương thập bát quy sơn ký đề Tiên Du tự
- Tranh
- Trì bạn kỳ 1
- Trì bạn kỳ 2
- Trì thượng
- Trừ dạ túc Danh Châu
- Trúc chi từ kỳ 1
- Trúc chi từ kỳ 2
- Trúc chi từ kỳ 3
- Trúc chi từ kỳ 4
- Trùng dương tịch thượng phú bạch cúc
- Trung thu nguyệt
- Trường An chính nguyệt thập ngũ nhật
- Trường hận ca
- Trường tương tư (I)
- Trường tương tư (II)
- Tự Giang Lăng chi Từ Châu lộ thượng ký huynh đệ
- Tự khuyến
- Từ ô dạ đề
- Tư phụ my
- Tử vi hoa
- Túc Chương Đình dịch
- Túc Huỳnh Dương
- Túc Tử Các sơn bắc thôn
- Tùng thanh
- Tuý hậu cuồng ngôn, thù tặng Tiêu, n nhị hiệp luật
- Tuý trung kiến Vi Chi cựu quyển hữu cảm
- Tỳ bà hành
- Ức giang liễu
- Ức Giang Nam kỳ 1
- Ức Giang Nam kỳ 2
- Ức Giang Nam kỳ 3
- Ức Nguyên Cửu
- Vân Cư tự cô đồng
- Văn dạ châm
- Văn Dương thập nhị tân bái tỉnh lang, dao dĩ thi hạ
- Vấn Hoài thuỷ
- Vấn hữu
- Văn khốc giả
- Vấn Lưu thập cửu
- Vãn thu nhàn cư kỳ 3
- Vi Chi chỉnh tập cựu thi cập văn bút vi bách trục, dĩ thất ngôn trường cú ký Lạc Thiên, Lạc Thiên thứ vận thù chi, dư tứ vị tận, gia vi lục vận trùng ký
- Vịnh hoài
- Vịnh Vũ Hầu
- Vọng Dịch đài
- Vọng giang lâu thượng tác
- Vọng nguyệt hữu cảm
- Vũ Khâu tự lộ yến lưu biệt chư kỹ
- Xuân đề hồ thượng
- Xuân đề Hoa Dương quán
- Xuân giang
- Xuân từ
- Y Châu
- Yến tán
- Yến Tử lâu kỳ 1
- Yến Tử lâu kỳ 2
- Yến Tử lâu kỳ 3
4. Những bài thơ nổi bật của thi sĩ Bạch Cư Dị
4.1 Trường hận ca - Tản Đà dịch
Nói về Bạch Cư Dị không thể không nhắc tới Trường hận ca (長恨歌), bài thơ xuất sắc nhất của ông được mệnh danh là “Tuyệt thế thi ca”. Bài thơ Trường hận ca mượn câu chuyện của Hán Vũ Đế (Lưu Triệt) và Lý phu nhân để nói về cuộc tình nổi tiếng trong lịch sử giữa Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng) và Dương Quý Phi (Dương Ngọc Hoàn). Trong bài thơ Bạch Cư Dị miêu tả tình yêu bằng bút pháp tuyệt đẹp ẩn chứa giọng điệu mỉa mai cuộc sống xa hoa, dâm dật không quan tâm đến dân chúng của bậc vua chúa làm nức lòng người yêu thơ.
Đức vua Hán mến người khuynh quốc
Trải bao năm tìm chuốc công tai
Nhà Dương có gái mới choai
Buồn xuân khóa kín chưa ai bạn cùng
Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc
Chốn ngai vàng phút chốc ngồi bên
Một cười trăm vẻ thiên nhiên
Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son
Trời xuân lạnh suối tuôn mạch ấm
Da mỡ đông kỳ tắm ao Hoa
Vua yêu bận ấy mới là
Con hầu nâng dậy coi đà mệt thay
Vàng nhẹ bước lung lay tóc mái
Màn phù dung êm ái đêm xuân
Đêm xuân vắn vủn có ngần
Ngai rồng từ đấy chậm phần vua ra
Suốt ngày tháng tiệc hoa vui mãi
Đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm
Ba nghìn xinh đẹp chị em
Ba nghìn yêu quý chất nêm một mình
Nhà vàng đúc, đêm thanh ấm áp
Lầu ngọc cao, say ắp mầu xuân
Anh em sướng đủ mọi phần
Mà cho thiên hạ có lần rẻ trai
Vẳng tiên nhạc khắp nơi nghe biết
Làn gió đưa cao tít Ly cung
Suốt ngày múa hát thung dung
Tiếng tơ, tiếng trúc say lòng quân vương
Ầm tiếng trống Ngư Dương kéo đến
Khúc Nghê Thường tan biến như không
Chín lần thành khuyết bị tung
Nghìn xe, muôn ngựa qua vùng Tây Nam
Đi lại đứng hơn trăm dậm đất
Cờ thuý hoa bóng phất lung lay
Sáu quân rúng rắng làm rầy
Mày ngài trước ngựa lúc này thương ôi!
Ai người nhặt thoa rơi bỏ đất
Ôi! Thuý Kiều ngọc nát vàng phai
Quân vương bưng mặt cho rồi
Quay đầu trông lại, máu trôi lệ dàn
Gió tung bụi mê man tản mác
Đường thang mây Kiếm Các lần đi
Vắng tanh, dưới núi Nga My
Mặt trời nhạt thếch, tinh kỳ buồn tênh
Đát Ba Thục non xanh nước biếc
Lòng vua cha thương tiếc hôm mai
Thấy trăng luống những đau người
Đêm mưa đứt ruột, canh dài tiếng chuông
Phút trời đất quay cuồng vận số
Bánh xe rồng đến chỗ ngày xưa
Đất bùn chỗ chết còn trơ
Thấy đâu mặt ngọc! Bây giờ Mã Ngôi!
Đầm vạt áo, vua tôi giọt lệ
Gióng dây cương, ngựa tế về đông
Cảnh xua dương liễu, phù dung
Vị Ương, Thái Dịch hồ cung vẹn mười
Phù dung đó, mặt ai đâu tá?
Mày liễu đâu? Cho lá còn như
Càng trông hoa liễu năm xưa
Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm
Xuân đào lý gió đêm huê nở
Thu khi mưa rụng lá ngô đồng
Kìa Nam Uyển, nọ Tây Cung
Đầy thềm ai quét lá hồng thu rơi?
Vườn lê cũ những ai con hát?
Mái tóc coi trắng phớt lạ lùng
Những ai coi giữ tiêu phòng?
Mày xanh thuở ấy nay cùng già nhăn
Trước cung điện nhìn sân đêm tối
Đom đóm bay gợi mối u sầu
Ngọn đền khêu đã cạn dầu
Khó thay, giấc ngủ dễ hầu ngủ xong!
Tiếng canh tối tùng tùng điểm trống
Năm canh dài chẳng giống đêm xưa
Sông Ngân lấp lánh sao thưa
Trời như muốn sáng, sao chưa sáng trời?
Tren mái ngói sương rơi ướt lạnh
Trong chăn nằm bên cạnh nào ai?
Cách năm sống thác đôi nơi
Thấy đâu hồn phách vãng lai giấc nồng?
Khách đạo sĩ Lâm Cùng có gã
Chơi Hồng Đô phép lạ thần thông
Xót vì vua chúa nhớ nhung
Mới sai phương sĩ hết lòng ra tay
Cưỡi luồng gió như bay như biến
Tren trời xanh, dưới đến đất đen
Hai nơi bích lạc, hoàng tuyền
Dưới tren tìm khắp mơ huyền thấy chi!
Sực nghe nói tìm đi mé bể,
Có non tiên ngoài phía hư không
Rỡ ràng cugn điện linh lung
Xa trông năm sắc mây lồng đẹp sao!
Trong tha thướt biết bao tiên tử
Một nàng tiên tên chữ Ngọc Chân
Mặt hoa da tuyết trắng ngần
Dáng như người ấy có phần phải chăng?
Mái tây gõ cửa vàng then ngọc
Cậy đưa tin Tiểu Ngọc, Song Thành
Nghe tin sứ giả Hán Đình
Cửa hoa trong trướng giật mình giấc mơ
Cầm áo dậy, thẩn thơ buồn bực,
Mở rèm châu, bình bạc lần ra
Bâng khoâng nửa mái mây tà
Thềm cao xuống chiếc mũ hoa lệch đầu
Phớt tay áo bay màu ngọn gió
Giống Nghê Thường khúc múa năm xưa
Lệ dàn mặt ngọc lưa thưa
Cành lê hoa trĩu hạt mưa xuân đầm
Ngừng nước mắt âm thầm buồn bã
Đội ơn lòng, xin tạ quân vương
Từ ngày cách trở đôi phương
Vắng tanh tăm tiếng, mơ màng hình dong
Nơi đế điện dứt vòng ân ái
Chốn tiên cugn thư thái hàng ngày
Cõi trần ngoảnh lại mà hay
Tràng An chẳng thấy, thấy đầy bụi nhơ!
Lấy chi tỏ tình xưa thăm thú?
Gửi cành hoa vật cũ cầm xuôi
Thoa vàng hộp khảm phân đôi
Nửa xin để lại nửa thời đem đi
Chỉ xin nguyện lòng ghi dạ tạc
Tựa hoa vàng bền chắc không phai
Thời cho cách trở đôi nơi
Nhân gian rồi với trên trời gặp nhau
n cần dặn mấy câu lâm biệt
Lời thề xưa lòng biết với lòng
Là đêm trùng thất ngồi chung
Trường Sinh sẵn điện vắng không bóng người
Xin kết nguyện chim trời liền cánh
Xin làm cây cành nhánh liền nhau
Thấm chi trời đất dài lâu
Giận này dặc dặc dễ hầu có nguôi…
4.2 Trường tương tư I - Nguyễn Minh dịch
Sông Biện chảy
Sông Tứ trôi
Cùng qua bến cũ đất Qua châu
Núi Ngô luống ngậm ngùi
Ý mênh mông
Giận thâm sâu
Giận tới khi nào người trở lại
Trăng soi ai tựa lầu.
4.3 Trường tương tư II - Nguyễn Minh dịch
Tháng chín trời gió tây thường thổi
Trăng lạnh lùng, sương gội thôi rơi
Suốt đêm thu nhớ chàng thôi
Hồn bay lên chín tầng trời mênh mông
Tháng hai thì gió đông thổi tới
Cỏ đâm ra lá mới, nở hoa
Nhớ chàng xuân chậm đi qua
Cả ngày ngơ ngẩn vào ra bồi hồi
Em ở phía bắc nơi cầu Lạc
Chàng ở nam cầu Lạc rõ ràng
Năm mười lăm tuổi biết chàng
Năm nay đã tám năm trường trôi qua
Em như cỏ nữ la thân mảnh
Sống đong đưa bên nhánh cây thông
Gặp cành cây ngắn hết hòng
Lên cao không được, quay vòng trở lui
Người ta bảo dâng lời phát nguyện
Lên tới trời sẽ biến thành mơ
Nguyện làm muông thú nơi xa
Sánh vai cất bước la cà bên nhau
Nguyện làm cây chốn rừng sâu
Giao cành kết lá bên nhau sống còn.
4.4 Hoa phi hoa - Nguyễn Thị Bích Hải dịch
Hoa chẳng phải hoa, sương cũng chẳng,
Đêm nửa đêm rồi, trời đã sáng.
Đến như xuân mộng chẳng bao lâu,
Đi như mây sớm không tăm dạng.
4.5 Hậu cung từ - Nguyễn Minh dịch
Khăn là lệ đẫm mộng tan
Canh khuya điện trước vẫn đàn ca vui
Má hồng ân sủng hết rồi
Tựa lò hương lạnh mà ngôì suốt đêm.
Bạch Cư Dị là nhà thơ tiêu biểu cho tư tưởng “nghệ thuật vị nhân sinh”, những tác phẩm của ông luôn ưu tiên biểu hiện tính chân thực của cuộc sống từ đó đả kích những bất công tồn tại trong xã hội phong kiến. Những tư tưởng nhân đạo trong thơ ca của ông, cách kể chuyện đặc sắc bằng thơ với cách dùng từ đẹp, bay bổng sẽ mãi lưu truyền trong tâm hồn những người yêu thơ ca.
Sưu tầm