Mục lục
Đời thơ của Đỗ Phủ là một bức tranh sống động về lịch sử Trung Quốc mà nhiều người vẫn hay gọi nó là thi sử. Lời thơ của ông thường trầm uất, nghẹn ngào bộc lộ nỗi cảm thông, thấu hiểu với nhân dân trong cảnh lầm than và thể hiện lòng yêu nước của ông. Do đó, các tác phẩm của Đỗ Phủ được người đời đón nhận và suy tôn ông là “Thi thánh”.
1. “Thi Thánh” - Đỗ Phủ là ai?
Đỗ Phủ (712 - 770), tự là Tử Mỹ, hiệu là Thiếu Lăng dã lão, Đỗ Lăng dã khách hay Đỗ Lăng bố y, là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời kỳ nhà Đường. Ông cùng với Lý Bạch được coi là những nhà thơ vĩ đại nhất của lịch sử văn học Trung Quốc. Vì tài năng tuyệt vời và đức độ cao thượng nên Đỗ Phủ từng được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi Sử và Thi Thánh
Theo sử sách ghi chép lại, Đỗ Phủ sinh ra tại huyện Củng, tỉnh Hà Nam, nguyên quán ở Tương Dương, Hồ Bắc. Tuy nhiên, sau này, ông tự xem mình là người của kinh đô Trường An.
Song thân của nhà thơ Đỗ Phủ đều xuất thân trong một gia đình danh giá. Cha ông là Đỗ Nhàn. Mẹ là Thôi thị xuất thân từ Thôi Thị Thanh Hà. Tuy nhiên, bà đã mất sau khi hạ sinh nhà thơ Đỗ Phủ.
Vì có xuất thân và được sinh trưởng trong gia đình quyền quý từ nhỏ nên ông đã lãnh hội, tiếp thu nền giáo dục truyền thống của Trung Quốc. Những tiếp thu này nhằm phục vụ cho sự thăng tiến trên con đường quan lại sau này của ông. Đỗ Phủ học thuộc lòng các tác phẩm triết học kinh điển Khổng giáo, lịch sử và thi ca. Một số sử sách ghi chép, ông đã sáng tác một số thơ ca ngay từ sớm, khi còn trẻ nhưng đã bị thất truyền vì nhà thơ không lưu giữ lại.
2. Cuộc đời và sự nghiệp của Đỗ Phủ - Ánh trăng sáng của thơ ca nhà Đường
Đỗ Phủ có xuất thân từ gia đình quyền quý nhưng cuộc đời, sự nghiệp làm quan gặp khá nhiều truân chuyên. Để hiểu thêm về con người cũng như sự nghiệp của Đỗ Phủ, cùng nhau tìm hiểu các thông tin sau đây nhé!
2.1 Cuộc đời và con đường quan trường truân chuyên của Đỗ Phủ
Vào năm 730, Đỗ Phủ đến Trường An để dự thi nhưng bị trượt. Sự việc này đã tạo ra nhiều tranh cãi, chỉ trích trong nhiều thế kỷ tiếp sau. Có người cho rằng ông bị đánh trượt bởi cách hành văn thời bấy giờ quá rắc rối và tối nghĩa, nhưng có người lại cho rằng ông trượt kỳ thi vì không tìm kiếm được các mối quan hệ ở kinh đô. Song, đến nay, vẫn chưa một ai có thể đưa ra chứng cứ để chứng minh lý do ông bị rớt trong kỳ thi mà tất cả chỉ đều là suy đoán.
Cho đến khoảng năm 740, cha của nhà thơ Đỗ Phủ qua đời. Theo cấp bậc của cha, ông có thể được nhận một chức quan dân sự nhưng ông đã từ chối và nhường lại cơ hội cho một người em khác mẹ. Sau đó, Đỗ Phủ đến Lạc Dương để sinh sống.
Vài năm sau, Đỗ Phủ gặp Lý Bạch - người bạn vong niên của ông. Lúc bấy giờ, ông vẫn đương ở độ tuổi trẻ. Trong khi đó, Lý Bạch đã ở độ tứ tuần và nổi tiếng trên văn đàn. Song đó không phải là ranh giới cản trở hai tâm hồn đồng điệu kết thành tri kỷ.
Đến năm 746, Đỗ Phủ một lần nữa đến Trường An để kiếm một chức quan nhưng ông lại một lần nữa bị đánh trượt. Từ đó, ông quyết định không đi thi nữa. Thay vào đó ông đã trực tiếp thỉnh cầu hoàng đế trong nhiều năm với mong muốn có thể được ban một chức quan. Mãi đến năm 755, ông mới được chỉ định làm quan coi kho vũ khí. Tuy nhiên, trước khi ông nhậm chức, một các sự kiện diễn ra đã khiến Đỗ Phủ không thể nhận được chức quan như mong muốn.
Loạn An Lộc Sơn xảy ra vào tháng 12/755 đã khiến Trung Hoa rơi vào cảnh lầm than, nhà cửa bị thiêu rụi, dân chúng sống trong cảnh đói nghèo, bệnh tật, bị triều đình bạc đãi. Trong giai đoạn này, Đỗ Phủ cũng bị khốn đốn phải lưu lạc khắp nơi để tìm chốn dung thân.
Thế nhưng, thời gian không hạnh phúc này lại giúp cho Đỗ Phủ có cơ hội gần gũi với cuộc sống lầm than của người dân. Đây là yếu tố làm nảy sinh lòng cảm thông sâu sắc với kiếp người cùng khổ, làm nên hồn thơ nhân đạo trong thơ ca Đỗ Phủ. Cuộc chiến này vừa là sự kiện lịch sử lớn làm chao đảo triều đại nhà Đường vừa ảnh hưởng sâu sắc đến đời thơ, phong cách sáng tác của ông.
Năm 756, Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng) buộc phải thoái vị, bỏ kinh đô tháo chạy. Đỗ Phủ khi ấy cũng phải đưa gia đình đi lánh nạn và tìm đường đi theo triều đình mới của Đường Túc Tông (hoàng đế thứ 8 hay thứ 10 của nhà Đường). Trên đường đi, ông bị quân nổi loạn bắt đưa về Trường An. Vào mùa thu năm ấy, con trai út của Đỗ Phủ ra đời.
Về sau, trong triều đại mới, ông được ban chức Tả thập di. Chức vụ này giúp ông có cơ hội được gặp Hoàng đế, nhưng thực chất chỉ mang tính lễ nghi. Nhà thơ lợi dụng cơ hội này để dâng thư can gián cho Hoàng đế việc loại bỏ Phòng Quán. Tuy nhiên, ý kiến của ông lại không hợp lòng vị vua mới. Năm 758, Đỗ Phủ bị giáng xuống làm Tư công tham quân ở Hoa Châu. Chức vụ này làm ông chán ngán.
Mùa hè năm 759, Đỗ Phủ rời bỏ triều đình và đến Tân Châu. Ở đây, ông đã sáng tác sáu mươi bài thơ. Năm 760, ông tới Thành Đô (tỉnh Tứ Xuyên) và sau đó ông rơi vào cảnh túng quẫn. May mắn, ông được Nghiêm Vũ - một người bạn, đồng môn làm Tổng trấn ở Đô Thành giúp đỡ.
Mặc dù rơi vào cảnh khó khăn như vậy nhưng có thể nhận định đây là một trong những giai đoạn thanh bình, hạnh phúc của Đỗ Phủ. Cũng trong giai đoạn này nhiều bài thơ được sáng tác miêu tả cuộc sống thanh bình đã ra đời. Tuy nhiên, đến năm 762, để tránh cuộc bạo loạn Đỗ Phủ quyết định rời Thành Đô.
Mùa xuân 765, nhà thơ Đỗ Phủ cùng gia đình đi thuyền xuôi sông Dương Tử quay về Lạc Dương. Thế nhưng, chuyến đi rất chậm bởi tình trạng sức khỏe của ông lúc ấy không tốt. Họ buộc dừng lại ở Quỳ Châu cho tới tận năm 766. Có thể nói, đây là giai đoạn phát triển rực rỡ của ông với 437 bài thơ được sáng tác, đa phần là thơ Đường luật.
Mùa thu 766 tổng trấn trong vùng đã giúp đỡ tài chính và trao một chức quan thư ký nhưng không chính thức cho Đỗ Phủ. Đến tháng 3/768, Đỗ Phủ bắt đầu hành trình đến tỉnh Hồ Nam, tiếc thay, vào tháng 11 hay tháng 12/770, nhà thơ đã ra đi tại Đàm Châu trên chiếc thuyền rách nát, ở tuổi 59.
Xem thêm:
Những câu thơ hay về tình yêu khiến bạn bồi hồi thổn thức
Top những bài thơ hay về cuộc sống hạnh phúc giúp bạn hiểu về cuộc đời
25 bài thơ tình bất hủ Việt Nam, những áng thơ tình yêu bất diệt
2.2 Sự nghiệp sáng tác của “Thi Thánh”
Có thể nói, Đỗ Phủ gắn liền với duyên bút mực. Ông sáng tác từ rất sớm, để lại cho đời sau với hơn một nghìn bài thơ đang được lưu truyền cùng những tác phẩm bị thất lạc.
Thơ của Đỗ Phủ chủ yếu sáng tác ở 3 chủ đề là lòng yêu dân, ái quốc và tinh thần đấu tranh chống bọn cường quyền. Những tác phẩm của ông chính là những trang thiên ký sự về cuộc đời thăng trầm của chính nhà thơ. Trong đó, có một số bài thơ nổi tiếng với năm tháng mà khi nhắc đến ông ai cũng đều nhớ tới như: Vọng nhạc, Binh xa hành, Thứ lão vô thanh lệ thùy huyết, Nguyệt dạ, Xuân Vọng, Đăng nhạc dương lâu,...
Đặc biệt, thể loại thơ của Đỗ Phủ vô cùng đa dạng. Chỉ cần qua tư duy của ông thì từ ngũ ngôn, thất ngôn, cổ thể đến cận thể đều trở nên xuất sắc, nhuần nhuyễn. Thế nhưng, sở trường của ông vẫn là ngũ ngôn. Ở thể thơ này phải kể đến Vịnh hoài ngũ bách tự, Tráng du, Thuật hoài,... được ông trau chuốt, gọt giũa công phu tạo nên những vần thơ hoàn mỹ.
Ngoài ra, có thể chia thơ ông thành hai loại cổ thi và cận cổ thi. Thế nhưng, dù ở thể loại nào thì Đỗ Phủ cũng đều dụng công rất nhiều. Ông nắm vững được thanh vận trong ngôn ngữ Trung Quốc, có thể vận dụng một cách dễ dàng và thuần thục trong sáng tác.
Không chỉ nắm vững các niêm luật nghiêm ngặt của thơ cổ mà nhà thơ còn tiếp thu có chọn lọc, kết hợp với sự sáng tạo trong thơ ca đương thời, ông đa đẽo gọt những nguyên liệu vốn có một cách tỉ mỉ nhất để làm ra những viên ngọc quý cho đời.
Theo sử sách ghi chép thì thời đỉnh cao mà của sự nghiệp thơ văn của nhà thơ Đỗ Phủ được công nhận và học tập là thời kỳ Bắc Tống. Các tác phẩm thơ ca của ông thời bấy giờ đều được đánh giá một cách toàn diện nhất. Tên tuổi ông gắn liền với sự phát triển của Tân Khổng giáo. Ông đã dành cả đời để minh chứng cho người đời thấy rằng dù sống trong bất cứ hoàn cảnh nào thì Đỗ Phủ vẫn chưa bao giờ quên đi quân vương của mình.
Bên cạnh đó, thông qua vần thơ của mình, ông khẳng định tấm lòng người chí sĩ giữa cảnh binh đao loạn lạc. Có thể nhận định, dưới con mắt của một thi sĩ tài hoa thì cảnh chiến loạn đã được phô bày một cách trọn vẹn nhất, bức tranh đầy tang thương được phác họa một cách chân thực nhất.
3. Những bài thơ bất hủ thể hiện lý tưởng cao đẹp của Đỗ Phủ
Để lại cho đời với hơn 1000 bài thơ, song tên tuổi của Đỗ Phủ không chỉ dừng lại ở sự tài hoa trong sáng tác thơ ca mà còn ở tư tưởng và đạo đức cao cả, không bị sự đau thương bào mòn. Chính những tư tưởng mới lạ trong thi ca của ông đã tạo sức ảnh hưởng to lớn đến thi ca Trung Quốc. Một số bài thơ bất hủ sau đây thể hiện rõ tài hoa của Đỗ Phủ.
3.1 Nguyệt dạ
Phiên âm
Kim dạ Phu Châu nguyệt
Khuê trung chỉ độc khan
Giao liên tiểu nhi nữ
Vị giải ức Trường An
Hương vụ vân hoàn thấp
Thanh huy ngọc tí hàn
Hà thời ỷ hư hoảng
Song chiếu lệ ngân can.
Dịch nghĩa
Vầng trăng ở Phu Châu đêm nay
Trong phòng khuê chỉ một người đứng nhìn
Ở xa thương cho con gái bé bỏng
Chưa hiểu nỗi nhớ Trường An
Sương thơm làm ướt mái tóc mai
Ánh trăng trong sáng làm giá lạnh cánh tay ngọc
Bao giờ được tựa bên màn mỏng
Để trăng chiếu cả đôi ta cho ngấn lệ ráo khô?
Dịch thơ
Đêm trăng
Đêm nay Phu Châu sáng
Mình em ngắm trăng khuya
Nỗi nhớ Trường An ấy
Thương con chửa biết gì
Sương thơm làn tóc đẫm
Ánh lạnh cánh tay tê
Bao giờ cùng soi bóng
Đôi mình ngấn lệ se.
(Tác giả: Khương Hữu Dụng dịch)
Đêm trăng
Châu Phu này lúc trăng soi,
Buồng the đêm vắng riêng coi một mình.
Đoái thương thơ dại đầu xanh,
Tràng An chưa biết mang tình nhớ nhau.
Sương sa thơm ướt mái đầu,
Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong.
Bao giờ tựa bức màn không,
Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô
(Tác giả: Tản Đà dịch)
Xem thêm:
Tổng hợp 3254 câu thơ Kiều của đại thi hào Nguyễn Du
Chùm thơ hay về vẻ đẹp và thân phận người phụ nữ Việt Nam
Tuyển tập thơ 2 câu về cuộc sống ai cũng nên đọc một lần
3.2 Khúc Giang
Phiên âm
Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân
Phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân
Thả khan dục tận hoa kinh nhãn
Mạc yếm thương đa tửu nhập thần
Giang thượng tiểu đường sào phỉ thúy
Uyển biên cao trủng ngọa kỳ lân
Tế suy vật lý tu hành lạc
Hà dụng phù danh bạn thử thân.
Dịch nghĩa
Ao Khúc Giang
Một mảnh hoa rơi bay làm giảm bớt vẻ đẹp của xuân
Lúc gió thổi tung vạn cánh hoa đến mọi nơi cũng chính
Là lúc làm cho người buồn.
Hãy nhìn và cảm nhận hết hoa bay qua trong mắt.
Đừng nên chán vì xót thương nhiều, cứ để rượu thấm môi
Chim phỉ thúy còn làm tổ ở ngôi nhà trên sông.
Trong khi con kỳ lân lại nằm im nơi ngôi mộ bên vườn.
Suy cho cùng về lý lẽ của sự vật, ta nên hưởng thú vui.
Tại sao còn để phù danh trói buộc tấm thân này?
Dịch thơ
Ao Khúc Giang
Một mảnh hoa bay xuân kém tươi
Gió tung ngàn cánh để sầu người
Hãy nhìn cảm tận hoa trong mắt
Đừng xót thương nhiều rượu thấm môi
Chim thúy ven sông còn kết tổ
Kì lân bên mộ lặng im hơi
Suy cùng trời đất nên vui sống
Sao để phù danh buộc trói đời?
(Tác giả: Hoàng Nguyên Chương dịch)
3.3 Lữ dạ thư hoài
Phiên âm
Tế thảo vi phong ngạn
Nguy tường độc dạ chu
Tinh thuỳ bình dã khoát
Nguyệt dũng đại giang lưu
Danh khởi văn chương trứ
Quan ưng lão bệnh hưu
Phiêu phiêu hà sở tự
Thiên địa nhất sa âu
Dịch nghĩa
Đêm ở đất khách, viết nỗi lòng
Trên bờ cỏ lăn tăn dưới gió hiu hiu
Chiếc thuyền vươn cao cột buồm trong đêm quạnh
Sao rũ xuống cánh đồng bằng phẳng bao la
Trăng tung toé trên sông chảy cuồn cuộn
Danh tiếng há nhờ văn chương mà lừng lẫy
Làm quan cũng nên về nghỉ khi già ốm
Chơi vơi giống như cái gì ?
Một con chim âu giữa trời đất.
Dịch thơ
Nỗi niềm đêm đất khách
Gió êm bờ cỏ mượt
Thuyền chiếc cột buồm cao
Sông rộng trôi vầng thỏ
Đồng bằng rợp ánh sao
Thơ văn danh há cậy
Già yếu chức nài bao
Âu trắng trong trời đất
Chơi vơi tựa chốn nao?
(Tác giả: Lê Nguyễn Lưu dịch)
Nỗi niềm đêm đất khách
Bên bờ cỏ dợn gió hiu hiu,
Cô quạnh thuyền con dưới bóng chiều.
Đồng rộng mênh mông sao rủ thấp,
Sông dài cuồn cuộn bóng trăng thâu.
Văn chương mấy thuở lừng danh tiếng,
Hoạn lộ già nua phải cáo lui.
Thân thế chơi vơi tuồng ngoại vật,
Bãi sa trời rộng giống chim âu.
(Tác giả: Chi Điền dịch)
3.4 Binh xa hành
Phiên âm
Xa lân lân,
Mã tiêu tiêu,
Hành nhân cung tiễn các tại yêu.
Gia nương thê tử tẩu tương tống,
Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều.
Khiên y đốn túc lạn đạo khốc,
Khốc thanh trực thướng can vân tiêu.
Đạo bàng quá giả vấn hành nhân,
Hành nhân đãn vân : điểm hành tần.
Hoặc tòng thập ngũ bắc phòng Hà,
Tiện chí tứ thập tây doanh điền.
Khứ thời lý chánh dữ khỏa đầu,
Qui lai đầu bạch hoàn thú biên.
Biên đình lưu huyết thành hải thuỷ,
Vũ Hoàng khai biên ý vị dĩ.
Quân bất văn : Hán gia sơn đông nhị bách châu,
Thiên thôn vạn lạc sinh kinh kỷ ?
Túng hữu kiện phụ bả sừ lê,
Hoà sinh lũng mẫu vô đông tê.
Huống phục Tần binh nại khổ chiến,
Bị khu bất dị khuyển dữ kê !
Trưởng giả tuy hữu vấn,
Dịch phu cảm thân hận !
Thả như kim niên đông,
Vị hưu Quan Tây tốt.
Huyện quan cấp sách tô,
Tô thuế tòng hà xuất ?
Tín tri sinh nam ác,
Phản thị sinh nữ hảo.
Sinh nữ do đắc giá tị lân,
Sinh nam mai một tùy bách thảo.
Quân bất kiến Thanh Hải đầu,
Cổ lai bạch cốt vô nhân thu ?
Tân quỷ phiền oan, cựu quỷ khốc,
Thiên âm vũ thấp, thanh thu thu.
Dịch thơ
Binh xa hành
Xe rầm rầm,
Ngựa hí rân,
Người đi cung tên đeo bên lưng.
Cha mẹ, vợ con chạy theo tiễn,
Bụi mù chẳng thấy cầu Hàm Dương.
Níu áo giậm chân, chặn đường khóc,
Tiếng khóc xông lên thẳng chín tầng.
Khách qua đường thấy, hỏi người đi,
Người rằng: "Bắt đi những mấy kỳ.
Lấy từ mười lăm giữ Hoàng Hà,
Cho đến bốn mươi ra khẩn điền.
Lúc đi ông lý quấn chỏm cho,
Trở về đầu bạc lại đi liền.
Ngoài biên máu chảy thành biển đỏ,
Mở cõi nhà vua ý chưa bỏ.
Há chẳng nghe nhà Hán, Sơn Đông hai trăm châu,
Ngàn thôn muôn xóm ùn gai cỏ.
Ví có đàn bà khoẻ cuốc cày,
Lúa mọc tràn lan khắp bốn bề.
Huống nữa quân Tần quen khổ chiến,
Khác chi gà chó bị lùa đi.
Thương tình, dù ông hỏi,
Nỗi hờn đâu dám nói,
Và mùa đông năm nay,
Lính Quan Tây chưa nghỉ.
Nhà vua bức đòi tô,
Chạy đâu ra tô thuế?
Mới biết sinh con trai,
Chẳng bằng sinh con gái.
Sinh con gái còn được gả gần nhà,
Sinh con trai lấp vùi theo cỏ dại!
Há chẳng thấy miền Thanh Hải kia sao?
Xưa nay xương trắng ai nhặt đâu!
Ma mới kêu oan, ma cũ khóc,
Trời âm mưa thấm, tiếng hu hu.
(Tác giả: Khương Hữu Dụng dịch)
Xem thêm:
Thơ hay ngắn về tình yêu và cuộc sống dạt dào cảm xúc
Tổng hợp những bài thơ về sóng biển dạt dào cảm xúc
21 bài thơ tâm trạng chất chứa nỗi buồn và sự cô độc
3.5 Thu hứng
Phiên âm
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu Sơn Vu Giáp khí tiêu sâm
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm
Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Dịch nghĩa
Cảm hứng mùa thu
Sương móc làm cho rừng phong tiêu điều
Núi Vu, khe Vu hơi thu hiu hắt
Mặt sông in trời, sóng như nhảy tận lưng trời
Trên cửa ải mây giãng sát mặt đất
Bụi cúc nở hoa bấy nay đã hai lần làm rơi nước mắt
Lòng nhớ quê chỉ còn biết buộc vào chiếc thuyền lẻ loi này
Ở đây ai nấy đều đang lo cắt may áo rét
Trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày giặt áo về chiều nghe hối hả.
Dịch ra thơ Đường luật
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
(Tác giả: Nguyễn Công Trứ)
Vàng úa rừng phong, hạt móc bay,
Non Vu hiu hắt phủ hơi may.
Dòng sông cuồn cuộn, trời tung sóng,
Ngọn ải mờ mờ, đất rợp mây.
Lệ tủi: sợ coi chòm cúc nở,
Lòng quê: mong buộc chiếc thuyền đầy.
Giục ai kéo thước lo đồ lạnh,
Đập vải trời hôm rộn tiếng chày.
(Tác giả: Ngô Tất Tố dịch)
Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
Vu Sơn, Vu Giáp khí thu dày.
Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
Đầu ải mây sà mặt đất bay.
Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
Nơi nơi áo lạnh địi dao thước,
Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
(Tác giả: Khương Hữu Dụng dịch)
Sương đọng rừng phong héo hắt cây
Vu Sơn, Vu Giáp, khí mù bay
Trên sông sóng cuộn, trời liền nước
Ngoài ải hơi đùn, đất giáp mây
Một chiếc thuyền đơn tình cũ buộc
Hai phen cúc nở lệ xưa đầy
Nơi nơi áo lạnh tìm dao thước
Bạch Đế chiều hôm rộn tiếng chày.
(Tác giả: Bùi Khánh Đản)
Dịch ra thơ lục bát
Rừng phong xơ xác sương bay,
Vu sơn Vu giáp hơi may lạnh lùng.
Ngất trời sóng dội lòng sông,
Mịt mù mặt đất, mây lồng ải xa.
Con thuyền buộc mối tình nhà,
Hai lần cúc nở, lệ sa hai hàng.
Áo đông may cắt rộn ràng,
Tiếng chày đập vải, hôm vang Bạch thành.
(Tác giả: Trần Trọng Kim dịch)
Rừng phong quạnh quẽ sương rơi
Non xa dáng cũng buốt hơi thu rồi
Lòng sông sóng nhảy lưng trời
Ải xa mặt đất bời bời mây giãng
Vàng hoa thôi lại ướt khăn
Thuyền côi nhớ bến bâng khuâng vô vàn
Rét lên thước, kéo rộn ràng
Thành cao chầy nện âm vang bóng chiều.
(Tác giả: Thu Tứ dịch)
3.6 Xuân vọng
Phiên âm
Quốc phá sơn hà tại
Thành xuân thảo mộc thâm
Cảm thời hoa tiển lệ
Hận biệt điểu kinh tâm
Phong tỏa liên tam nguyệt
Gia thư để vạn kim
Bạch đầu tao cánh đoản
Hồn dục bất thăng trầm
Dịch nghĩa
Nước bị tàn phá, núi sông vẫn còn đấy
Mùa xuân trong thành, cỏ cây mọc đầy
Cảm (thương) thời thế, hoa rơi lệ
(Oán) hận biệt ly, chim kinh sợ trong lòng
Khói lửa báo động liên miên ba tháng trời
Thư nhà (đến), quý như muôn lạng vàng
Ðầu bạc, xoa thấy càng lưa thưa
Coi bộ không đủ (dày) để cài trâm.
Dịch thơ
Nước phá tan, núi sông còn đó
Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu
Cảm thời hoa rỏ dòng châu
Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng
Ba tháng khói lửa ròng không ngớt
Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn
Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun
Dường như hết thảy, e khôn búi tròn.
(Tác giả: Trần Trọng Kim dịch)
Nước tàn sông núi còn đây
Thanh xuân cây cỏ mọc đầy khắp nơi
Cảm thời hoa cũng lệ rơi
Chim kia cũng sợ hận người lìa tan
Lửa phong ba tháng lan tràn
Thư nhà đưa đến muôn vàng chắt chiu
Xoa đầu tóc bạc ngắn nhiều
So le lởm chởm khó điều cài trâm.
(Tác giả: Trần Trọng San dịch)
Nước mất còn sông núi
Thành xuân cảnh um tùm
Biệt ly lòng chim hãi
Cám cảnh lệ hoa tuôn
Lửa hiệu liền ba tháng
Thư nhà đáng mấy muôn
Gãi hoài cùn tóc bạc
Chừng tuột chiếc trâm luôn.
(Tác giả: Tương Như dịch)
Nước mất nhưng núi sông còn,
Thành xuân quạnh quẽ um tùm cỏ gai.
Cảm thời, hoa để lệ rơi,
Biệt li hoa cũng vì người xót xa.
Tháng ba rồi đến tháng ba,
Thư nhà buổi loạn đúng là vàng muôn.
Gãi đầu tóc bạc thêm cùn,
Búi lên xổ xuống, trâm luồn lại rơi.
(Tác giả: Khương Hữu Dụng dịch)
3.7 Đăng Nhạc Dương lâu
Phiên âm
Tích văn Động Đình thủy
Kim thướng Nhạc Dương lâu
Ngô Sở đông nam sách
Càn khôn nhật dạ phù
Thân bằng vô nhất tự
Lão bệnh hữu cô chu
Nhung mã quan san bắc
Bằng hiên thế tứ lưu.
Dịch nghĩa
Trước kia từng nghe nói đến (nước) hồ Động Đình
Hôm nay lên lầu Nhạc Dương
(Hồ này) phân chia đất Ngô ở phía đông, đất Sở ở phía nam
Trời đất đêm ngày trôi mãi
Bà con không có một chữ (cho biết tin tức)
Già lão sinh bệnh chỉ có mỗi con thuyền
Ở phía bắc quan ải, núi non, chiến tranh vẫn còn xảy ra
Đứng tựa hiên lầu nước mắt tuôn trào.
Dịch thơ
Động Đình nghe nói từ lâu
Hôm nay mới được lên lầu Nhạc Dương
Sở Ngô chia cắt nam đông
Ngày đêm trời đất mênh mông mặt hồ
Vắng tin bạn cũ người xưa
Chiếc thân già bệnh bơ vơ con thuyền
Chiến chinh ải bắc chưa yên
Lệ rơi chan chứa tựa hiên ngậm ngùi.
(Tác giả: Trần Trọng San dịch)
Động Đình nghe tiếng từ xưa
Mà đây lầu Nhạc bây giờ mới lên
Đông nam Ngô Sở tách miền
Mênh mang trời đất ngày đêm bềnh bồng
Bạn bè một chữ vẫn không
Thân già ma bệnh chiếc bồng lẻ loi
Bắc phương giặc giã rối bời
Bên hiên đứng tựa sụt sùi lệ sa.
(Tác giả: Nam Trân dịch)
Có thể thấy con người tài hoa như Đỗ Phủ lúc sinh thời phải chịu cảnh cơ hàn cho đến khi tạ thế cũng không thoát khỏi bệnh tật quấn thân. Tuy nhiên, đời thơ của ông lại rất vẻ vang, ông mãi là bóng cây cổ thụ che rộng khắp Trung Hoa đến muôn đời sau.
Sưu tầm
Nguồn ảnh: Internet