- Những bài vè dân gian hay nhất về thực vật
- Vè dân gian về động vật
- Vè cầm thú
- Vè con kiến (I)
- Vè con kiến (II)
- Vè cá (Cá biển cá bầy, ăn ngày hai bữa)
- Vè cá (Cá biển, cá đồng, cá sông, cá ruộng)
- Vè cá (Cá kình, cá ngạc, cá nác, cá dưa)
- Vè cá (Con cá nhà giàu, là con cá nục)
- Vè cá (Hai bên cô bác, lẳng lặng mà nghe)
- Vè cá (Cứu trong thiên hạ, là con cá voi)
- Vè cá (No lòng phỉ dạ, là con cá cơm)
- Vè chim chóc (Cha sáo, mẹ sáo)
- Vè chim chóc (Hay chạy lon ton, là gà mới nở)
- Vè chim chóc (Hay moi hay móc, vốn thiệt con dơi)
- Vè chim chóc (Thứ hay lớn tiếng, tu hú ác là)
- Vè chim chóc (Tiếng kêu rủ rỉ, là tiếng chim chài)
- Những bài vè dân gian ngắn về bánh
- Những bài vè dân gian Việt Nam nói ngược
- Vè nói ngược (Non cao đầy nước, đáy biển đầy cây)
- Vè nói ngược (Bước sang tháng sáu giá chân)
- Vè nói ngược (Bao giờ cho đến tháng ba)
- Vè nói ngược (Các cụ dung dẻ đi chơi)
- Vè nói ngược (Con chim mần tổ dưới nước)
- Vè nói ngược (Hươu đẻ dưới nước, cá ở trên núi)
- Vè nói ngược (Lưng đằng trước, bụng đằng sau)
- Vè nói ngược (Năm nay lớn nước, thiên hạ được mùa)
- Vè nói ngược (Ngồi buồn nói ngược mà chơi)
- Vè nói ngược (Xắn quần mà lội, lội núi cheo leo)
- Các bài vè dân gian châm biếm, than thân
- Bài vè hay về lòng yêu nước
Vè là một thể loại văn học dân gian của Việt Nam, thường được sử dụng để kể chuyện, phản ánh sự kiện, hay giới thiệu về con người và cuộc sống. Với ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu và vần điệu nhịp nhàng, vè dễ dàng thu hút người nghe, trở thành một loại diễn xướng phổ biến trong sinh hoạt văn hóa dân gian thuở trước. Không chỉ mang tính giải trí, vè còn là công cụ để người dân bày tỏ quan điểm, châm biếm nhẹ nhàng, hoặc cổ vũ tinh thần tập thể, giúp gắn kết mọi người. Trong bài viết sau, hãy cùng VOH điểm qua một số bài vè dân gian ấn tượng.
Những bài vè dân gian hay nhất về thực vật
Với vần điệu nhịp nhàng, các loài cây cỏ, hoa quả được tái hiện một cách chân thật và sinh động.
Vè trái cây
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè trái cây.
Dây ở trên mây,
Là trái đậu rồng.
Có vợ có chồng,
Là trái đu đủ.
Chặt ra nhiều mủ,
Là trái mít ướt.
Đầu tựa gà xước,
Vốn thiệt trái thơm.
Cái đầu chơm bơm,
Là trái bắp nấu.
Rủ nhau làm xấu,
Trái cà dái dê.
Ngứa mà gãi mê,
Là trái mắt mèo.
Khoanh tay lo nghèo,
Là trái bần ổi.
Sông sâu chẳng lội,
Là trái mãng cầu.
Chẳng thấy nàng đâu,
Ấy là trái cách.
Trong ruột ộc ạch,
Là trái dừa xiêm.
Chín thì thâm kim,
Chuối già chuối xứ.
Tùng tam tụ tứ,
Một lũ dưa gang.
Vốn ở miền Nam,
Là trái bí rợ.
mẹ sai đi chợ,
vốn thiệt trái dâu.
ở những ao sâu,
là trái bông súng.
Chẳng nên lễ cúng,
Đó là trái sung.
Nhỏ mà cay hung,
Là trái ớt hiểm.
Đánh túc cầu liễm,
Vốn thiệt trái me.
Nắng mà chẳng che,
Là trái rau mát.
Rủ nhau chà xát,
Vốn thiệt trái chanh.
Nhỏ mà làm anh,
Trái đào (điều) lộn hột.
Ăn mà chẳng lột,
Vốn thiệt trái tiêu.
Thổi nghe ú liêu,
Là trái cóc kèn.
Rủ nhau đi rèn,
Là trái đậu rựa.
Đua nhau chọn lựa,
Cam ngọt, cam sành.
Những chị lịch sự,
Bằng táo với hồng.
Những gái chưa chồng,
Muốn ăn mua lấy.
Vè rau
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè các rau.
Thứ ở hỗn hào,
Là rau ngành ngạnh.
Trong lòng không chánh,
Vốn thiệt rau lang.
Đất ruộng bò ngang,
Là rau muống biển.
Quan đòi thầy kiện
Bình bát nấu canh.
Ăn hơi tanh tanh,
Là rau dấp cá (diếp cá).
Có cha có mẹ,
Rau má mọc bờ.
Thò tay sợ dơ,
Nó là rau nhớt.
Rau cay như ớt,
Vốn thiệt rau răm.
Sống trước ngàn năm,
Là rau vạn thọ.
Tánh hay sợ nợ,
Vốn thiệt rau co.
Làng hiếp chẳng cho,
Nó là rau húng.
Lên chùa mà cúng,
Vốn thiệt hành hương.
Giục ngựa buông cương,
Là rau mã đề.
Vè hoa
Tháng giêng nắng lám,
Nước biển mặn mòi.
Vác mai đi xoi,
Là bông hoa giếng.
Hay bay hay liệng,
Là hoa chim chim.
Xuống biển mà chìm,
Là bông hoa đá.
Bầu bạn cùng cá,
Là đá san hô.
Hỏi Hán qua Hồ,
Là bông hoa sứ.
Gìn lòng nắm giữ,
Là hoa từ bi.
Ăn ở theo thì,
Là hoa bầu ngọt.
Thương ai chua xót,
Là hoa sầu đâu.
Có sông không cầu,
Là hoa nàng cách.
Đi mà đụng vách,
Là hoa mù u.
Cạo đầu đi tu,
Là bông hoa bụt.
Khói lên nghi ngút,
Là hoa hắc hương.
Nước chảy dầm đường,
Là hoa mồng tơi.
Rủ nhau đi cưới,
Là hoa bông dâu.
Nước chảy rạch sâu,
Là hoa muống biển.
Rủ nhau đi kiện,
Là hoa mít nài.
Gái mà theo trai,
Là hoa phát nhũ.
Đêm nằm không ngủ,
Là hoa nở ngày.
Ban chẳng lìa cành,
Là bông hoa cúc.
Nhập giang tùy khúc,
Là bông hoa chìu.
Ở mà lo nghèo,
Là hoa đu đủ.
Đi theo cậu chủ,
Là hoa mầng quân.
Đánh bạc cố quần,
Là bông hoa ngỗ.
Ngồi mà choán chỗ,
Là hoa dành dành.
Giận chẳng đua tranh,
Là bông hoa ngải.
Bắt đi tha lại,
Là hoa phù dung.
Ăn ở theo đường,
Là bông hoa thị.
Theo mẹ bán bí,
Là hoa hanh hao.
Vè dân gian về động vật
Qua lời thơ giản dị và dí dỏm, bức tranh thiên nhiên được khắc họa vô cùng sống động, phản ánh sự quan sát tinh tế và tình cảm của con người dành cho tự nhiên.
Vè cầm thú
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè cầm thú:
Hay quyến hay dụ,
Là con chim quyên.
Nết ở chẳng hiền,
Là con chim còng cọc.
Làm ăn mệt nhọc,
Là con chim le le.
Nghe vẻ nghe ve,
Là con chim chèo bẻo.
Chân đi khấp khẻo,
Là con chim cò ma.
Tối chẳng dám ra,
Là con chim mỏ nhác.
Chim ăn từng vạc,
Là con chim chàng bè.
Chim ăn xó hè,
Là con chim lảnh lót.
Cầm xào mà vọt,
Là con chim công.
Đỏ mỏ xanh lông,
Là con chim trĩ.
Đánh nhau binh vị,
Là con chim bò sau.
Có sách cầm màu,
Là con chim thầy bói.
Không ai cưới hỏi,
Là con chim bông lông.
Ở góa không chồng,
Là te te hoành hoạch.
Dạ bền tơ sắt,
Là con chim chìa vôi.
Có đẻ không nuôi,
Là con chim vịt.
Ngồi buồn kể các món chim.
Nó ăn nó lớn nó tìm nhau đi.
Dòng dọc nó khéo lại khôn.
Con cú lót ở đầu cồn con cù.
Chim khách nó đã đem tin:
Nó kêu thì có chị em tới nhà.
Quà quạ cũng như người ta:
Rủ nhau đi tắm đàng xa mới về.
Vè con kiến (I)
Vè vẻ vè ve,
Là vè con kiến.
Kiến càng kiến kệ,
Kiến mệ kiến cha.
Kiến ở trong nhà,
Là con kiến đất.
Kiến leo bộng mật,
Là con kiến hôi.
Kiến leo miệng nồi,
Là con kiến lửa.
Kiến bay lả xả,
Là con kiến xanh.
Con ở bụi chanh,
Con ở bụi mía,
Con ở bụi khế,
Con ở bụi khoai,
Lẳng lặng lắng tai,
Bò ra cho chóng.
Con ở trong thoáng,
Con ở trong hang,
Con mỏ ràng ràng,
Mần tổ ngoài bụi.
Về nằm lúc túi (tối),
Đến đầu năm canh.
Đồng thanh đồng thanh,
Chúng choa (mình) bạn kiến.
Vè con kiến (II)
Kiến lửa tập đoàn,
Kiến vàng ở ổ.
Cao đầu lớn cổ,
Thiệt là kiến hùm.
Cắn chúng la um:
Kiến kim, kiến nhọt.
Nhỏ như con mọt,
Thiệt là kiến hôi.
Động trời nó sôi:
Kiến cánh, kiến lửa.
Bò ngang, bò ngửa:
Kiến riện đơn chai.
Bò dông, bò dài,
Bò qua, bò lại.
Kiến đực nói phải,
Kiến cái làm khôn.
Rủ nhau lên cồn,
Xoi hang lạch cạch.
Thuở xưa, trong sách,
Bàn Cổ sở phân.
Sanh ra chúng dân,
Đỏ đen như kiến.
Ấu tử làm biếng,
Chẳng có mẹ cha.
Không ai dạy la,
Nên không biết sợ.
Vè cá (Cá biển cá bầy, ăn ngày hai bữa)
Cá biển cá bầy,
Ăn ngày hai bữa,
Là con cá cơm.
Nhọn mồm nhọn mũi,
Là con chào rao.
Nhận hủ nhận vò,
Là con cá nhét.
Nở ra đỏ chẹt,
Là con các khoai.
Đi ăn trộm hoài,
Là con cá nhám.
Khệnh khệnh khạng khạng,
Là con cá căn.
Già rụng hết răng,
Là con cá móm.
Bò đi lọm khọm,
Là con cá bò.
Ăn chẳng biết no,
Là con cá hốc.
Vè cá (Cá biển, cá đồng, cá sông, cá ruộng)
Cá biển, cá đồng,
Cá sông, cá ruộng.
Dân yêu dân chuộng,
Lá cá tràu ổ.
Ăn nói hàm hồ,
Là con cá sứ.
Đưa đẩy chốn xa,
Là con cá đảy.
Hay gặp mặt nhau,
Là con cá ngộ.
Trong nhà nghèo khổ,
Là con cá cầy.
Chẳng dám múc đầy,
Là con cá thiểu.
Mỗi người mỗi thiếu,
Là con cá phèn.
Ăn nói vô duyên,
Là con cá lạc.
Trong nhà rầy rạc,
Là con cá kình.
Trai gái rập rình,
Là cá trích ve.
Dỗ mãi không nghe,
Là con cá ngạnh.
Đi đàng phải tránh,
Là con cá mương.
Mập béo không xương,
Là con cá nục.
Được nhiều diễm phúc,
Là con cá hanh.
Phản cha hại anh,
Là con cá giếc.
Suốt ngày ăn miết,
Là con cá cơm.
Chẳng kịp dọn đơm,
Là con cá hấp.
Rủ nhau lên dốc,
Là con cá leo.
Hay thở phì phèo,
Là con cá đuối.
Vừa đi vừa cúi,
Là con cá còm.
Hay nói tầm xàm,
Là con cá gáy.
Vừa trốn vừa chạy,
Là con cá chuồn.
Cứ viết lách luôn,
Là con cá chép.
Vè cá (Cá kình, cá ngạc, cá nác, cá dưa)
Nghe vẻ nghe ve
Vè các loài cá
Cá kình, cá ngạc
Cá nác, cá dưa
Cá voi, cá ngựa
Cá rựa, cá đao
Út sào, bánh lái
Lang hải, cá sơn
Lờn bơn, thác lác
Cá ngác, day tho
Cá rô, cá sặt
Cá sác, cá tra
Mồng gà, giảo áo
Cá cháo, cá cơm
Cám mờn, cá mởn
Sặc bướm, chốt hoa
Cá sà, cá mập
Cá tấp, cá sòng
Cá hồng, chim điệp
Cá ép, cá hoa
Bống dừa, bống kệ
Cá bẹ, học trò
Cá vồ, cá đục
Cá nục, lù đù
Cá thu, trèn lá
Bạc má, bác đầu
Lưỡi trâu, hồng chó
Lò có, lành canh
Chìm sanh, cá liếc
Cá giếc, cá mè
Cá trê, cá lóc
Cá nóc, thòi lòi
Chìa vôi, cơm lạt
Bống cá, bống kèo
Chim heo, cá chéc
Cá éc, cá chồn
Cá duồng, cá chẽm
Vồ dém, sặc rằn
Mòi đừng, bống hú
Trà mú, trà vinh
Cá kình, cá gộc
Cá cốc, cá chày
Cá dầy, cá đuối
Cá đối, cá kìm
Cá chim, bông vược
Cá nược, cá người
Cá buôi, cá cúi
Cá nhái, bã trầu
Cá nâu, cá dảnh
Hủng hình, tơi bời
Cá khoai, nóc mít
Cá trích nàng hai
Cá cầy, cá cháy
Cá gáy, cá nhàn
Tra bần, cá nái
Lóc nói, cá hô
Cá ngừ, mang rổ
Cá sủ, cá cam
Cá còm, cá dứa
Cá hó, cá lăng
Cá căn, cá viễn
Rô biển, lốp xơ
Cá bò, chim rắn
Cá phướn, ròng ròng
Trẻn bông trao trảo
Cá sọ, cá nhồng
Lòng tong, mộc tích
Úc phịch, trê bầu
Bông lau, bông trắng
Càn trảng, xanh kỳ
Cá he, cá mại
Mặt quỷ, cá linh
Cá chình, ốc gạo
Thủ ảo, cá kè
Cá ve lép mấu
Tứ mẫu, lia thia
Cá bè, trèn mễ
Đuôi ó, bè chan
Nóc vàng, cá rói
Cá lỏi, con cù
Rô lờ, trê đấu
Chạch lấu, nhám cào
Tra đầu, cá nhám
Úc núm, cá leo
Cá theo, cá suốt
Cá chuốt, cá phèn
Cá diềng, cá lúc
Cá mực, cá mau
Chim sâu, cá hụt
Sóc sọc, cá lầm
Cá rần, ca thiểu
Nhám quéo, chim gian
Cá ong, cá quý
Cá két, thiều nôi
Bông voi, úc hoác
Cá chạc, cá mòi.
Vè cá (Con cá nhà giàu, là con cá nục)
Con cá nhà giàu,
Là con cá nục.
Chặt ra nhiều khúc,
Là con cá chình.
Trai gái gập ghình,
Là con cá ve.
Chồng nói vợ nghe,
Là con cá mát.
Hết tiền hết bạc,
Là con cá cờ.
Tối ngủ hay rờ,
Là con cá ngứa.
Ăn ngày ba bữa,
Là con cá cơm.
Ăn chưa kịp đơm,
Là con cá hóc.
Dắt nhau lên dốc,
Là con cá leo.
Bụng thở phèo phèo,
Là con cá nóc.
Có gai trên óc,
Là con cá ngạch.
Đủ vi đủ cánh,
Là con cá chuồn.
Dắt nhau vô buồng,
Là con cá ngô.
Ăn cây lót ổ,
Là con cá chim.
Dắt nhau đi tìm,
Là con cá lạc.
Đi theo bạn hát,
Là cá nòng đầu.
Ăn sụp phênh sau,
Là con cá mối.
Bỏ vô trong cối,
Là con cá chày.
Dở chẳng nổi tay,
Là con cá liệt.
Đi theo đoàn xiếc,
Là con cá căn.
Già đã rụng răng,
Là con cá móm.
Gái đi cua trai,
Là con cá ngựa.
Vè cá (Hai bên cô bác, lẳng lặng mà nghe)
Hai bên cô bác,
Lẳng lặng mà nghe.
Nghe tôi kể cái vè,
Ngư lương, tử hổ.
Lý sâm, lý chuối,
Dưới rạch, dưới ngòi.
Cá nục, cá úc,
Cá thơm, cá thác.
Hơi nào mà kể hết,
Cá nơi làng này.
Thần linh chiêm bái,
Vậy mới cất chùa chiền,
Mới đúc Phật, đúc chuông.
Cô bác xóm giềng,
Lẳng lặng mà nghe.
Cá nuôi thiên hạ,
Là con cá cơm.
Không ăn bằng mồm,
Là con cá ngác.
Không ăn mà ú,
Là con cá voi.
Hai mắt thòi lòi,
Là cá trao tráo.
Không may quần áo,
Là con cá chim.
May áo không kim,
Là con duối dẻ.
Sống lâu mạnh khoẻ,
Là cá trường sanh.
Ờ ngoài đầu gành,
Là cá bống cát.
Đi thời xách mác,
Là con cá đao.
Đốn cây mà rào,
Là con cá chép.
Nó kêu óp ép,
Là con cá heo.
Buộc lại mà treo,
Là cá cờ phướng.
Để lên mà nướng,
Là cá nóc vàng.
Để được hai thoàn,
Là cá nhám nghệ.
Đi thời chậm trễ,
Là cá lù đù.
Đầu óc chù vù,
Là con cá úc.
Bắt lên chặt khúc,
Là con cá sòng.
Vợ đánh với chồng,
Là con cá sào.
Mình cũng như dao,
Là cá lưỡi trâu.
Eo đầu ngắn cổ,
Là con cá ét.
Miệng mồm lép xẹp,
Là con cá móm.
Chơi trăng cả hám,
Là con cá thu.
Vừa sủa vừa tru,
Là cá hàm chó.
May ngồi xỏ rỏ,
Là cá hàm be.
Lắng tai mà nghe,
Là con cá mỏng.
Việc làm cho chóng,
Là con cá mau.
Lãi đãi theo sau,
Là con cá nóc.
Chân đi lốc thốc,
Là con cá bò.
Ăn chẳng hay no,
Là con cá liệc.
Gái tham huê nguyệt,
Là con cá dâm.
Lấy cây mà đâm,
Là cá nhám nhọn.
Nước da lạm xạm,
Là cá nhám trâu.
Mặt trắng làu làu,
Là cá bạc má.
Hình đen như quạ,
Là cá ô mun.
Đặt giữa đình trung,
Là cá ông sáp.
Vừa đi vừa táp,
Là cá dọ đàng.
Kiều lạc khua vang,
Là con cá ngựa.
Rước thấy về chữa,
Là cá tà ma.
Đi xét từ nhà,
Là con cá sát.
Đắp bờ mà tát,
Là cá ở mương.
Giống không biết đường,
Là con cá lạt.
Kể cho cô bác,
Nghe lấy mà chơi.
Kể đã hết hơi,
Xin cho tôi nghỉ.
Vè cá (Cứu trong thiên hạ, là con cá voi)
Vè vẻ vè ve,
Ta vè con cá.
Cứu trong thiên hạ,
Là con cá voi.
Đi ngược về xuôi,
Là con cá đuối.
Cá hay nói thuội,
Là cá hồng leo.
Cá hay chạy theo,
Là cá hồng chó.
Cá chi to trọ,
Là con cá chai.
Bất thuận bất hoà,
Là con cá trặc.
Cá biết làm giặc,
Là con cá cờ.
Cá biết làm thơ,
Là con cá mực.
con cá không đực,
Là con cá mái.
Ngồi khoanh tay lại,
Là cá hồng đầu.
Cá ở vực sâu,
Là con cá vược.
Cá không bắt được,
Là con cá tràng.
Cá không biết đàng,
Là con cá lạc.
Một bầy cá bạc,
Một bầy cá xanh.
Có lưỡi không đanh,
Là con cá móm.
Cá với làng xóm,
Là con cá ông.
Tức giân lung tung,
Là con cá ghẻ.
Ai kiêng ai dè,
Là cá long hội.
Bạo lăn bạo lội,
Con cá tràu đô.
Ăn nói hồ đồ,
Là cá óc nóc.
Nhiều xương nhiều xóc,
Là con cá bò.
Cái ăn cái kho,
Là con cá bống.
Lôn chộn lộn chạng,
Là con cá sơn.
Khéo bào khéo chọn,
Là con cá phèn.
Cá chi có đàn,
Là con cá buôi.
Cá chi chạy xuôi,
Là con cá lúi.
Cá chi bạo đụi,
Ấy cá lưỡi cầy.
Quyết góp lại đây,
Để mình kể cá.
Ngó xuống dưới phá,
Có con cá thu.
Ngó xuống dưới xu (sâu),
Có con cá ngừ.
Ngó vô trong lừ,
Có con cá sao.
Ngó xuống dưới ao,
Có con cá hẻn.
Vè cá (No lòng phỉ dạ, là con cá cơm)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè loài cá.
No lòng phỉ dạ,
Là con cá cơm.
Không ướp mà thơm,
Là con cá ngát.
Liệng bay thoăn thoắt,
Là con cá chim.
Hụt cẳng chết chìm,
Là con cá đuối.
Lớn năm nhiều tuổi,
Là cá bạc đầu.
Đủ chữ xứng câu,
Là con cá đối.
Nở mai tàn tối,
Là cá vá hai.
Trắng muốt béo dai,
Là cá úc thịt.
Dài lưng hẹp kích,
Là cá lòng tong.
Ốm yếu hình dong,
Là con cá nhái.
Thiệt như lời vái
Là con cá linh.
Cá kình, cá ngạc
Cá lác, cá dưa.
Cá voi, cá ngựa,
Cá rựa, cá dao.
Úc sào, bánh lái,
Lăn hải, cá sơn.
Lờn bơn, thác lác,
Cá ngác, dày tho.
Cá rô, cá sặt,
Cá sát, cá tra.
Mề gà, dải áo,
Cá cháo, cá cơm,
Cá mờn, cá mớn,
Sặc bướm, chốt hoa.
Cá xà, cá mập,
Cát tấp, cá sòng.
Cá hồng, chim diệp,
Cá ép, cá hoa.
Bống dừa, bống xệ,
Cá be học trò.
Cá vồ, cá đục,
Cá nục, lù đù.
Cá thu trên lá,
Bạc má bạc đầu.
Lưỡi trâu hồng chó,
Là cá lành canh.
Chim sành cá biếc,
Cá giếc, cá mè.
Cá trê, cá lóc,
Cá nóc, thòi lòi.
Chìa vôi, cơm lạt,
Bống cát, bống kèo.
Chim heo, cá chét,
Cá éc, cá chuồng.
Cá duồng, cá chẽm,
Vồ đém, sặc rằn.
Mòi đường, bống mú,
Trà mú, trà vinh.
Cá hình, cá gộc,
Cá cốc, cá chày
Cá dày, cá đuối,
Cá đối, cá kìm,
Cá chim, cá vược,
Cá nược, cá ngừ.
Cá bui, cá cúi,
Cá nhái, bã trầu
Cá nàu, cá dảnh,
Hủng hỉnh tơi bời.
Cá khoai, ốc mít,
Cá tích nàng hai.
Cá cầy, cá cháy,
Cá gáy, cá ngàn.
Trà bần, cá nái,
Nóc nói, cá hô.
Cá ngừ, mang rổ,
Cá sủ, cá cam.
Cá còm, cá dứa,
Cá hố, cá lăn.
Cá căn, cá viễn,
Rô biển lép xơ.
Cá bơ, chim rắn,
Cá phướng, rồng rồng
Trên bông trao tráo,
Cá sọ, cá nhồng.
Tòng tong, mộc tích,
Úc phịch, trê bầu.
Bông sao, bông trắng,
Càn trảng xanh kỳ.
Cá he, cá mại,
Mặt quỷ, cá linh.
Cá chình, ốc gạo,
Thu áo, cá kè,
Cá ve lẹp nấu,
Từ mẫu thia thia,
Cá bè trên mễ,
Đuôi ó bè chan.
Nóc vàng, cá rói,
Cá lủi, con cù.
Rô lờ, tra dấu,
Trạch lấu, nhám đào.
Tra dầu, cá nhám,
Úc núm, cá leo.
Cá thiếc, cá suốt,
Cá chốt, cá phèn.
Cá diềng, cá lúc,
Cá mực, cá mau
Chim câu, cá huột
Sọc sọc cá lầm.
Cá rầm, cá thiểu,
Nhám quéo chim gian.
Cá ong, cá quít,
Cá kết thiền nôi.
Bông voi út hoát,
Cá chạch, cá mòi.
Vè chim chóc (Cha sáo, mẹ sáo)
Cha sáo, mẹ sáo,
Trồng một đám dưa.
Đi trưa về sớm,
Bầy quạ ăn chán.
Sáo giận sáo bỏ,
Sáo ra ngoài đồng.
Sáo ăn trái giác,
Sáo ăn trái đa.
Người ta bắt đặng,
Cắt cổ nhổ lông.
Tôi thưa với ông,
Tôi là con sáo.
Hay kiện hay cáo,
Là con bồ câu.
Lót ổ cho sâu,
Là con cà cưởng.
Chân đi lưởng thưởng,
Là chú cò ma.
Tối chẳng dám ra,
Là con mỏ nhát.
Chúi đầu xuống cát,
Là con manh manh.
Tấm rách tấm lành,
Là con sả vả.
Miệng cười hỉ hả,
Là con chim cu.
Hay oán hay thù,
Là chim chèo bẻo.
Học khôn học khéo,
Là con le te.
Hay đậu đọt tre,
Là con chèo gấm.
Vè chim chóc (Hay chạy lon ton, là gà mới nở)
Làng chim,
Hay chạy lon ton,
Là gà mới nở,
Cái mặt hay đỏ,
Là con gà mào.
Hay bơi dưới ao,
Mẹ con nhà vịt,
Hay la hay thét,
Là con bồ chao,
Hay bay bổ nhào,
Mẹ con bói cá.
Vè chim chóc (Hay moi hay móc, vốn thiệt con dơi)
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè chim chóc.
Hay moi hay móc,
Vốn thiệt con dơi.
Thấy nắng thì phơi,
Là con diệc mốc.
Lặn theo mấy gốc,
Là chim thằng chài.
Lông lá thật dài,
Là con chim phướn.
Rành cả bốn hướng,
Là chim bồ câu.
Giống lặn thật lâu,
Là con cồng cộc.
Ăn táp sồng sộc,
Là con chim heo.
Ham đậu cheo leo,
Là chim lá rụng.
Cắm đầu muốn thụng,
Là chim thầy bói.
Hay ăn hay nói,
Ấy thật chim quyên.
Vừa đứng vừa biên,
Là chim học trò.
Rủ nhau đi mò,
Là con chim ốc.
Gõ mõ lốc cốc,
Là chim thầy chùa.
Tụng kinh bốn mùa,
Là chim bìm bịp.
Chạy theo không kịp,
Là chim hít cô.
Bắt mẹ xẻ khô,
Là chim điền điển.
Không ăn ngoài biển,
Là chim le le.
Vè chim chóc (Thứ hay lớn tiếng, tu hú ác là)
Thứ hay lớn tiếng,
Tu hú, ác là.
Nhảy nhót lân la,
Chích choè, bìm bịp.
Tính hay ăn hiếp,
Chim cú, diều hâu.
Sang đứng lưng trâu,
Sáo hành, sáo nghệ.
Ăn không xiết kể,
Cồng cộc, chàng bè.
Đáp xuống bay lên,
Chim nhạn, chim bói.
Cái mồng đỏ chói,
Cao các, hồng hoàng.
Thức suốt canh tàn,
Chim heo, cú vọ.
Vè chim chóc (Tiếng kêu rủ rỉ, là tiếng chim chài)
Tiếng kêu rủ rì,
Là tiếng chim chài.
Nói một nói hai,
Là con sáo chợ.
Rắn rắn rợ rợ,
Là con chim công.
Đỏ mỏ xanh lông,
Là con chim chả (sả).
Moi dưa, moi quả,
Là con quạ già.
Tiếng kêu ả.. à,
Là con bìm bịp.
Vừa đi vừa nhịp,
Là con chìa vôi.
Làm tổ trên đồi,
Là con tú độc.
Ban đêm săn chuột,
Là con cú mèo.
Làm ổ chuồng heo,
Là con gà mái.
Những bài vè dân gian ngắn về bánh
Dưới đây là các bài vè hay giới thiệu về một số loại bánh phổ biến của nước ta mà bạn có thể tham khảo.
Vè bánh (Mấy tay phong tình huê nguyệt, thì sẵn có bánh trung thu)
Lẳng lặng mà nghe,
Tôi nói cái vè,
Vè các thứ bánh.
Mấy tay phong tình huê nguyệt,
Thì sẵn có bánh trung thu.
Mấy ông thầy tu,
Bánh sen thơm ngát.
Ai mà hảo ngọt,
Thì có bánh cam.
Những kẻ nhát gan,
Này là bánh tét.
Còn như bánh ếch,
Để mấy ông câu.
Hủ lậu từ lâu,
Thì ưa bánh tổ.
Mấy tay hảo võ,
Bánh thuẫn sẵn sàng.
Các thứ bánh bàn,
Kính như chấp bút.
Ai năng thống phúc,
Nên đụng bánh gừng.
Còn bánh ếch trần,
Cu li chia lấy.
Kẻ nào trồng rẫy,
Thì sẵn bánh khoai.
Mấy gã uống say,
Bánh men rất quý.
Này bánh bao chỉ,
Để các thợ may.
Má phấn bông tai,
Thì ưa bánh dứa.
Những người thổi lửa,
Thì có bánh phồng.
Bánh kẹp bánh còng,
Để cho đạo tặc.
Còn bánh quai vạc,
Đạo chích muốn ăn.
Ai thích thoát giang,
Thì ăn bánh lọt.
Trôi nước rất ngọt,
Để các thuyền chài.
Dầm mưa hoài hoài,
Thì ăn bánh ướt.
Bất toại vô chước,
Thì ăn bánh bò.
Những kẻ hay lo,
Ăn bánh tai yến.
Ai ham trồng kiểng,
Có bánh bông lan.
Còn như bánh tráng,
Để hạng trai tơ.
Mấy ả giang hồ,
Bánh bèo sẵn đó.
Ai mà mặt rỗ,
Thì bánh chôm chôm.
Tay xách nách ôm,
Bánh bao khá ních.
Mấy tay hàng thịt,
Da lợn để dành.
Còn trã bánh canh,
Để ba chú lính.
Chủ nhân Lục tỉnh,
Thì có bánh in.
Đầu bếp mấy tên,
Phải ăn bánh rế.
Này là bánh nghệ,
Cho chị nằm nơi.
Kẻ dệt lụa tơ,
Bánh tằm sẵn để.
Còn như bánh quế,
Mấy đấng y sanh.
Tọc mạch rành rành,
Thì ăn bánh hỏi.
Hễ là thầy bói,
Thì ăn bánh quy.
Mấy ổ bánh mì,
Cho nhà nho nhã.
Quảng Đông mấy gã,
Ăn bánh cà na.
Béo thịt thẳng da,
Thì ăn bánh ú.
Rộng đường mấy chú,
Như để sẵn đây.
Phật giáo mấy thầy,
Xin ăn bánh cúng.
Phận tôi lúng túng,
Trái đất tôi giành.
Ai có lanh chanh,
Tôi cho bánh khẹt.
Vè bánh (Tròn như mặt trăng, đó là bánh xèo)
Nghe vẻ nghe ve,
Vè các thứ bánh.
Tròn như mặt trăng,
Đó là bánh xèo.
Có cưới có cheo,
Đó là bánh hỏi.
Đi không đặng giỏi,
Ấy là bánh bò.
Ăn không đặng no,
Nó là bánh ít.
Giống nhau như hịt,
Chính thức bánh in.
Mắc cỡ không nhìn,
Là bánh khổ qua.
Nấu nếp căng ra,
Là bánh xôi nước (trôi nước).
Biết đi biết bước,
Đó là bánh chưng.
Có núm trên lưng,
Lá bánh nhũ đệ.
Mật đường mà chế,
Là bánh đa trời.
Để đĩa có ngời,
Bánh trong, bánh lọc.
Giống như dễ mọc,
Chỉ là bánh gừng.
Lạt cột trên lưng.
Là cái bánh tét,
Bốn cẳng nó quét.
Đó là bánh quy.
Hay kiêng hay vì,
Là bánh xôi vị (dị).
Bỏ nó trong bị,
Đó là bánh bao.
Lóng lánh như sao,
Là bánh bột báng.
Tròn như viên đạn,
Đúng là bánh cam.
Ăn ở chơm bơm,
Thiệt là bánh ổ.
Tròn như lỗ dỗ,
Là cái bánh căng.
Cái mình có rằn,
Là bánh da lợn.
Trông thấy lợn cợn,
Đó là chè khoai.
Ăn vào ngứa hoài,
Đúng là bánh dứa.
Lấy trai có chửa,
Là cái bánh bầu.
Xe nhợ mà câu,
Thiệt là bánh chỉ.
Muốn ăn cho kỹ,
Thì ních tàu thung.
Thiêng hạ chẳng ưng,
Là cái bánh còng.
Xe nhợ mà vòng,
Đó là bánh nghệ.
Giã ra mà chế,
Thiệt là xu xoa.
Tưởng nhớ ông bà,
Thì ra bánh cúng.
Hấp ra có núm,
Đó là bánh trần.
Phơi để ngoài sân,
Là liếp bánh tráng.
Hai mùa sáu tháng,
Là bánh trung thu.
Đi lọng đi dù,
Đó là xôi rượu.
Vè bánh trái
Bánh đứng đầu vè
Ðó là bánh tổ
Cái mặt nhiều lỗ
Là bánh tàn ong
Ðể nó không đồng
Ðó là bánh tráng
Ngồi lại đầy ván
Nó là bánh quy
Sai không chịu đi
Ðó là bánh bàng
Trên đỏ dưới vàng
Là bánh da lợn
Mây kéo dờn dợn
Là bánh da trời
Ăn không dám mời
Nó là bánh ít
Băng rừng băng rít
Ðó là bánh men
Thấy mặt là khen
Nó là xôi vị
Nhiều nhân nhiều nhị
Là bánh trung thu
Vô lửa nổi u
Ðó là bánh phồng
Ðem thả giữa dòng
Ðó là bánh neo
Ra nắng dẻo queo
Ðó là bánh sáp
Không ai dám xáp
Ðó là bánh xe,
Xỏ lại tréo que
Ðó là bánh rế
Ăn rồi còn ế
Ðó là bánh dừa
Ăn không có chừa
Ðó là bánh tiêu
Ðể lâu nó thiu
Vốn là bánh ướt
Chưa ăn giấu trước
Nó là bánh cam
Bỏ vô khám giam
Ðó là bánh còng
Ôm ấp vào lòng
Nó là bánh kẹp
Xem coi thật đẹp
Ðó là bánh chưng
Chồng nói mới ưng
Ðó là bánh hỏi
Ðêm nằm mệt mỏi
Ðó là bánh canh
Kéo níu từng khoanh
Ấy là bánh tét
Ráp lại từng nét
Nó là bánh gừng
Bước lên có từng
Ðó là bánh cấp
Nằm ngủ dưới thấp
Là bánh hạ nhân
Mình nó trợt trơn
Ấy là bánh lọt
Ăn thơm mà ngọt
Là bánh hoa viên
Ăn khỏi trả tiền
Ðó là bánh bao
Ðem liệng đàng sau
Là bánh quai vạc
Trắng trong như bạc
Là bánh xu xê
Mặt tràng ê hề
Ðó là bánh bún
Mình đen lốm đốm
Là bánh hạt mè
Thấy ai cũng kè
Ðó là bánh dập
Người thích mặt chắc
Ðó là bánh dày
Nói nghe rất hay
Ðó là bánh mật
Bụng no ấm cật
Ðó là bánh âm
Mình mẩy trắng trong
Là bánh bột lọc
Ai cũng mời mọc
Là cái bánh trôi
Ðứng không thấy vui
Ðó là bánh bò
Nằm cứ co ro
Ðó là bánh cuốn
Cái gì cũng muốn
Nó là bánh đa
Dứt hoài không ra
Nó là bánh dẻo
Nổi trôi khắp nẻo
Ðó là bánh bèo
Giàu mãi không nghèo
Chính là bánh khoái
Ðược người ưu đãi
Là bánh phồng phềnh
Nhẹ mỏng và mềm
Ðó là bánh cốm
Áo quần lốm đốm
Nó là bánh gai
Một giống như hai
Chính là bánh đúc
Tròn cho một cục
Ðó là bánh vo
Ăn hoài không no
Ðó là bánh vẽ
Dùng cho lính trẻ
Là bánh chè lam
Ăn uống tham lam
Ðó là bánh ú
Ði mấy không đủ
Ðó là bánh giò
Từng đoạn quanh co
Ðó là bánh khúc…
Những bài vè dân gian Việt Nam nói ngược
Khác với lối diễn đạt thông thường, vè nói ngược truyền tải nội dung theo cách trái ngược với thực tế. Sự hài hước và dí dỏm trong thể loại vè này có thể trở thành phương tiện phê phán nhẹ nhàng những thói hư tật xấu trong xã hội, hoặc dùng để truyền tải thông điệp sâu sắc.
Vè nói ngược (Non cao đầy nước, đáy biển đầy cây)
Ve vẻ vè ve,
Cái vè nói ngược.
Non cao đầy nước,
Đáy biển đầy cây.
Dưới đất lắm mây,
Trên trời lắm cỏ.
Người thì có mỏ,
Chim thì có mồm.
Thẳng như lưng tôm,
Cong như cán cuốc.
Thơm nhất là ruốc,
Hôi nhất là hương.
Đặc như ống bương,
Rỗng như ruột gỗ.
Chó thì hay mổ,
Gà hay liếm la.
Xù xì quả cà,
Trơn như quả mít.
Meo meo là vịt,
Quạc quạc là mèo.
Trâu thì hay trèo,
Sóc thì lội nước.
Rắn thì hay bước,
Voi thì hay bò.
Ngắn như cổ cò,
Dài như cổ vịt.
Đỏ như quả quýt,
Vàng như quả hồng.
Cao tồng ngồng như chim tu hú,
Lùn lụ khụ như chim bồ nông.
Vè nói ngược (Bước sang tháng sáu giá chân)
Bước sang tháng sáu giá chân,
Tháng một nằm trần bức đổ mồ hôi.
Con chuột kéo cầy lồi lồi,
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong.
Vườn rộng thì thả rau rong,
Ao sâu giữa đồng, vãi cải làm dưa.
Đàn bò đi tắm đến trưa,
Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương.
Voi kia nằm ở gặm giường,
Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn.
Chuồn kia thấy cám liền ăn,
Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua.
Trời mưa cho mối bắt gà,
Thòng đong, cân cấn đuổi cò lao xao.
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Thóc giống cắn chuột trong bồ,
Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu.
Chim chích cắn cổ diều hâu,
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm.
Bong bóng thì chìm,
Gỗ lim thì nổi.
Đào ao bằng chổi,
Quét nhà bằng mai.
Hòn đá dẻo dai,
Hòn xôi rắn chắc.
Gan lợn thì đắng,
Bồ hòn thì bùi.
Hương hoa thì hôi,
Nhất thơm thì cú.
Đàn ông to vú,
Đàn bà rậm râu.
Hay cắn thì trâu,
Hay cày thì chó.
Vè nói ngược (Bao giờ cho đến tháng ba)
Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.
Hùm nằm cho lợn liếm lông,
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,
Con gà, be rượu nuốt người lao đao.
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò,
Cỏ năn, cỏ lác rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi bắt diều hâu,
Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông.
Vè nói ngược (Các cụ dung dẻ đi chơi)
Các cụ dung dẻ đi chơi,
Để cho con trẻ lại ngồi đấm lưng.
Ta mang sợi chỉ lên rừng,
Để trói con hổ, hổ đừng quấy ta.
Ta mang dây chão về nhà,
Ta trói con kiến, kiến ra đằng nào.
Vè nói ngược (Con chim mần tổ dưới nước)
Vẻ vè vè ve,
Nghe vè nói ngược.
Con chim mần tổ dưới nước,
Con cá mần tổ trên cây.
Thằng chết dắt trâu đi cầy,
Thằng sống chôn mày dưới lỗ.
Thuyền ông đi bộ,
Ngựa lội dưới sông.
Một bầy cá nhám lên đồng kiếm ăn.
Vè nói ngược (Hươu đẻ dưới nước, cá ở trên núi)
Lặng nghe kể ngược,
Hươu đẻ dưới nước,
Cá ở trên núi.
Đựng phân bằng túi,
Đựng trầu bằng gơ.
Bể thì có bờ,
Ruộng thì lai láng.
Hàng xẩm thì sáng,
Tối mịt thì đèn.
Hũ miệng thì kèn,
Loa miệng thì lo.
Cân cấn thì to,
Con voi bé tí.
Nhẵn nhụi thì mít,
Gai góc thì dừa.
Bồ hòn thì chua,
Nước cá thì thơm.
Người nằm ổ rơm,
Nhường giường cho chó.
Thất nghiệp thì giàu,
Bay thấp bồ câu,
Bay cao thì dế.
Chua thì có mía,
Ngọt thì có chanh.
Thịt lợn thì tanh,
Thịt bò thì ngậy.
Ngọt thì có cậy,
Chua thì có bánh đường.
Đi cày bằng quang,
Gánh phân bằng ách.
Bà vãi có sách,
Ông thầy ngồi không.
Quan cả đeo gông,
Thằng tù xử kiện.
Cái kiến thì to,
Con bò bé tí.
Vè nói ngược (Lưng đằng trước, bụng đằng sau)
Lưng đằng trước,
Bụng đằng sau.
Đi bằng đầu,
Đội bằng gót.
Dấm thì ngọt,
Mật thì chua.
Nhanh như rùa,
Chậm như thỏ.
Quan khốn khổ,
Dân giàu sang.
Vua bần hàn,
Dân sung túc.
Cứng bánh đúc,
Mềm gỗ lim.
To như kim,
Bé như cột.
Lợn nhảy nhót,
Chim ù lì.
Trắng như chì,
Đen như bạc.
Chó cục tác,
Gà gâu gâu.
Vè nói ngược (Năm nay lớn nước, thiên hạ được mùa)
Ve vẻ vè ve,
Nghe vè nói ngược.
Năm nay lớn nước,
Thiên hạ được mùa.
Sinh ra cái cua,
Tám càng hai cẳng.
Nhất trọng nhì hiệp,
Vua chúa thì hiền.
Giấy bản thì đen,
Mực tàu thì trắng.
Gan lợn thì đắng,
Bồ hòn thì bùi.
Hương xạ thì hôi,
Thơm tho tổ cú.
Đàn ông to vú,
Đàn bà rậm râu.
Khoẻ cắn thì trâu,
Khoẻ cày thì chó.
Yếu chạy thì ngựa,
Khoẻ chạy thì sên.
Tối như đèn,
Sáng như xẩm.
Lẩm cẩm cơm nếp,
Cơm tẻ dẻo dang.
Cứng như khoai lang,
Bở như hòn đá.
Trên vườn thả cá,
Dưới ao trồng rau.
Nuôi vịt chọi nhau,
Gà trống lội nước.
Vè nói ngược (Ngồi buồn nói ngược mà chơi)
Ngồi buồn nói ngược mà chơi
Cua đinh nó liệng trên trời quá hay
Trưa trưa bắt chó ra cày
Trâu kia hực sủa, chuột dày ông voi
Một lũ thầy bói đi coi
Trưa trưa đốt đuốc mà soi ếch bà
Con nít mà dắt bà già
Chân đi lỏng khỏng té mà xuống ao
Câu thì lấy đá làm phao
Lưới kia đem bủa ào ào ngọn cây
Con sấu liệng bay trên mây
Rồng vàng trói ké nằm ngay dưới bè
Thầy pháp tụng kinh rề rà
Thầy chùa bắt chó ra hè mà ram
Thầy tu mắng chửi làm xàm
Chằn tinh tu hành đọc sách siêng năng
Chuột xạ thấy thịt thì gầm
Hùm thì bươi rác xóc dằm trong da
Dưới sông tàu ngựa, chuồng dê
Trên bờ lại thả câu rê, lưới mành
Chẻ tre mà buộc manh manh
Xe sợi chỉ mành cột cổ con nai
Bùn kia đã cứng còn dai
Thịt gà cồ nọ chưa nhai đã mềm
Con vịt đá độ ăn tiền
Gà trống mẹ hiền lặn lội nuôi con
Đàn bà trang điểm kiếm chồng
Con gái ở vậy dốc lòng thuỷ chung
Bảy mươi, bảy mốt còn son
Mười lăm mười sáu cháu con bộn bàng.
Vè nói ngược (Xắn quần mà lội, lội núi cheo leo)
Vè vẻ vè ve,
Cắm vè cắm lối.
Xắn quần mà lội,
Lội núi cheo leo.
Chống gậy mà trèo,
Trèo sông trèo bể.
Tôi ngồi tôi kể,
Cái vè của tôi.
Cứng như xôi,
Mềm như đá.
Thơn như cú,
Tanh như hương.
Tối như gương,
Sáng như mực.
Mùa đông nóng nực,
Mùa hè rét run.
Các bài vè dân gian châm biếm, than thân
Nội dung của các bài vè này nhằm mục đích phê phán thói hư tật xấu, tệ nạn trong xã hội. Ngoài ra còn tố cáo thói tham lam độc ác của chế độ phong kiến, thuộc địa, đồng thời khắc họa nỗi khổ của người dân.
Vè thằng nhác
Ve vẻ vè ve,
Cái vè thằng nhác.
Trời đã phú thác,
Tính khí anh ta.
Buổi còn mẹ cha,
Theo đòi việc học.
Anh ngồi anh khóc,
Chữ nghĩa ích chi.
Cho anh học cày,
Rằng nghề đầy tớ.
Cho anh làm thợ,
Nói nghề ấy buồn.
Cho đi bán buôn,
Ấy nghề ngồi chợ.
Việc làm tránh né,
Chỉ biết ăn chơi.
Cha mẹ qua đời,
Không ai nuôi dưỡng.
Dáng đi vất vưởng,
Như thể cò hương.
Bụng đói giơ xương,
Miệng thổi tu hú.
Tay chân cụ rụ,
Như tướng cò ma.
Cô bác xót xa,
Kêu cho nắm gạo.
Bỏ mồm trệu trạo,
Sợ nấu mất công.
chết rũ giữa đồng,
Xong đời thằng nhác.
Vè nói láo (I)
Láo thiên láo địa,
Láo từ ngoài Sịa láo vô.
Ngồi buồn nói chuyện láo thiên:
Lúc nhỏ tôi có đi khiêng ông Trời
Ra đồng thấy muỗi bắt dơi,
Bọ hung làm giỗ có mời ông voi
Nhà tôi có một củ khoai,
Xắt ra bảy thúng hẳn hòi còn dư
Nhà tôi có một củ từ,
Bới lên môt củ nó hư cả vườn.
Tôi vừa câu được con lươn,
Cái thịt làm chả, cái xương đẽo chàỵ
Nhà tôi có một cối xay,
Đầu cong bịt bạc, đầu ngay bịt vàng.
Nhà tôi có một cái ang,
Đựng lúa bảy làng mà hãy còn lưng.
Nhà tôi có một củ gừng,
Bới lên một củ nửa chừng đòn xeo (xẹo)
Nhà tôi có một con mèo,
Khi nào hết chuột lên đèo bắt nai
Nhà tôi có một cái chai,
Đựng bảy thùng mắm và hai thùng dầu
Cha tôi có một bộ râu,
Ngứt ra một sợi câu con cá chình.
Nói ra các bạn đừng khinh,
Thiên hạ nói láo cả, phải mình chi tôi.
Vè nói láo (II)
Tiếng đồn quả thiệt chẳng sai
Có người nói láo không ai dám bì
Lội ngang qua biển một khi
Thấy tàu đương chạy tôi ghì ngừng như không
Lên rừng tôi vác đá hàn sông
Gặp cọp tôi bồng về để nuôi chơi
Nhà tôi có trồng một bụi cải trời
Lá bằng cái sịa kinh thời tôi quá kinh
Dưa gang của tôi cái hột bằng cái chình
Sức tôi một mình ăn hết nồi ba
Tôi trồng chơi có một dây khổ qua
Nó ra một trái tôi xách mà năm ky
Lại thêm cây ổi cũng dị kỳ
Bán chơi một lứa tiền thì năm trăm
Ngồi buồn tôi để một con tằm
Mười lăm cân kén ba trăm quan mài
Nhà tôi có một cây xoài
Tam niên quả thực hột rày bằng cái lu
Mía mây của tôi một đám mịt mù
Một lóng năm người ăn đã sức ăn
Cau vườn nhà tôi cái hột bằng trái banh
Trà Huế của tôi ba làng uống đã giáp năm
Đường ra ngoài Huế, xứ Chăm
Họ đi thì sáu tháng tôi đi có một ngày
Lên núi tôi đặt thợ đóng cày
Bắp thời bằng cái cột, cạnh rày bằng cái nong
Tới mùa tôi đi ăn ong
Sáp tôi gánh bảy gánh, mật ong tôi đong mười thùng
Ngồi buồn tôi nghĩ chuyện cùng
Tôi đương một cái thúng chứa được chừng ba thiên
Đi chợ không đi bằng tiền
Tôi xài bằng bạc, bắt dân khiêng hai làng
Nhà tôi có cây khế vàng
Nó ra một trái ba làng ăn no
Đi đường tôi xí được cái mo
Tôi đem về đựng lúa khỏi lo dừng bồ
Nhà tôi có cặp gà cồ
Ăn chơi có hai bữa hết bồ nếp than
Tôi trồng bậy bạ có một sợi dây lang
Nó ra mà có hai củ tôi gánh cái lưng nó muốn oằn
Lại thêm có cặp thằn lằn
Năm nay thì nó lớn muốn bằng chiếc ghe
Lên rừng tôi đặt thợ đóng ghe
Đóng ba bảy bồ tôi chèo nó rã hai
Đi đường chẳng có dầu chai
Tôi móc đất sét tôi trét nó rày đi được ba năm…
Vè đánh bạc (I)
Cái vẻ cái ve,
Cái vè đánh bạc.
Đầu hôm xao xác,
Mặt tốt như tiên,
Canh khuya hết tiền,
Mặt như chim cú.
Cái đầu sù sụ,
Con mắt trỡm lơ.
Bộ đi thất thơ,
Như hình chó đói.
Chân đi cà khói,
Dạo xóm dạo làng.
Quần rách lang thang,
Lấy tay mà túm.
Vè đánh bạc (II)
Nghe vẻ nghe ve, nghe vè bài tới,
Cơm chưa kịp bới, trầu chưa kịp têm…
Tôi đánh một đêm, thua ba tiền rưỡi,
Về nhà chồng chửi, thằng Móc thằng Quăn,
Đánh sao không ăn, mà thua lắm bấy?
Tôi lấy tiền cấy, cho đủ mười ngày.
Bảy thưa bảy dày, cùng là ngạt kéo,
Chị em khéo léo, dễ mượn dễ vay,
Thân tôi ngày rày, dầm sương dãi nắng.
Chị em có mắng, tôi cũng ngồi đây.
Nó là tuồng dày, nó cũng a dua.
Ăn thì tôi dùa, thua thì tôi chạy.
Vè bậu lỡ thời
Ống tre khô người ta còn chuộng
Bậu lỡ thời như ruộng bỏ hoang
Ruộng bỏ hoang người ta còn cấy
Bậu lỡ thời như giấy trôi sông
Giấy trôi sông người ta còn vớt
Bậu lỡ thời như ớt chín cây
Ớt chín cây người ta còn hái
Bậu lỡ thời như nhái lột da
Nhái lột da người ta còn xáo
Bậu lỡ thời như áo vá vai
Áo vá vai người ta còn bận
Bậu lỡ thời như rận cắn đêm
Rận cắn đêm người ta còn bắt
Bậu lỡ thời như giặc Hà Tiên
Giặc Hà Tiên người ta còn đánh
Bậu lỡ thời như cánh chim bay
Cánh chim bay người ta còn bắn
Bậu lỡ thời như rắn cụt đuôi
Rắn cụt đuôi người ta còn sợ
Bậu lỡ thời như nợ kéo lôi
Nợ kéo lôi người ta cò trả
Bậu lỡ thời như trã nấu ăn
Trã nấu ăn người ta còn rửa
Bậu lỡ thời như lửa cháy lan
Lửa cháy lan người ta còn tưới
Bậu lỡ thời như lưới giăng ngang
Lưới giăng ngang người ta còn cuốn
Bậu lỡ thời ai muốn nà ưng.
Vè chồng chung
Chồng chung khó lắm ai ơi!
Ai bước chân vô đó,
Không ăn ngồi được mô!
Quyền bán với quyền mua,
Thời là em không có.
Đâm gạo với xay ló,
Thời là em đã có phần,
Đập đất với khiêng phân,
Đâm xay, rồi nấu nướng.
……
Gẫm như bọn người ở,
Chỉ sáu tháng thời thôi
Cái thân em ở đời,
Hỏi làm sao chịu được?
Chồng sai đi múc nước,
Vợ bảo lấy que tăm.
Trải chiếu toan đi nằm,
Đọi dì hai chưa rửa.
Có ba bốn thúng lúa,
Chị chồng đầu chân xay.
Cám em bắc lên đây.
Cơn (cây) rau riu chưa xắt,
Ngọn rau riu chưa xắt.
Em làm công việc vặt,
Vừa đến tối canh ba,
Em vừa ngả mình ra,
Con chim kia vừa kêu,
Con gà rừng vừa gáy.
Chồng em đánh thức dậy,
Biểu nấu cơm đi cày;
Gạo em chưa đâm xay,
Đã soạn gánh gồng cho bà đi chợ.
Một tháng sáu phiên chợ
Bà cho đi một phiên,
Bà trao cho một tiền,
Bà truyền cho đủ giống,
Bà lại truyền đủ giống;
Mua mười đồng thì trứng,
Lại mua mười đồng trầu:
Mua mười tám đồng cau,
Hai mươi đồng thì mỡ.
Lựa còn một chữ,
Tráo lại hàng vôi
Mua đoạn, bán rồi
Vừa hầu tan buổi chợ
Về đến đầu ngõ,
Con đòi: “Bánh mẹ mô?”
- Chồng riêng tê tồ
Chồng chung, mẹ nỏ dám mua!
Vè Hương Chức Hồi Tề
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè hương chức.
Người mà không cực,
Giàu có bạc ngàn.
Hương chủ trong làng,
Muốn tìm vợ bé.
Bộ Mỗ cũng lẹ,
Mới chịu làm mai.
Mua rượu hai chai,
Đem về để đó.
Mới kêu thầy Có,
Mà hỏi đôi lời.
Em chịu ở đời,
Với người giàu có.
Vợ thì ta có,
Mà không có con.
Kiếm gái còn non,
Đem về nối nghiệp.
Tội nghiệp.
Vè thuế nặng
Hỡi trời cao đất dày!
Thuế sao nặng thế này?
Làng xóm đành bóp bụng,
Bán đìa nộp thuế tây.
Từ thượng mục, hạ hào,
Trống mõ nện lao nhao.
tiền phải mau đem nộp,
Ba đồng, thêm sáu hào.
Tuần đinh như thiên lôi,
Lý trưởng mắt ốc nhồi
Mồn đe nẹt, quát chửi,
Sao ra tiền ông xơi!
Mục hào thật chó má,
Quát mắng suốt đêm ngày
Làm dân mình bới xới,
Chỉ sướng độc quan Tây.
Buộc lòng phải theo xâu,
Tưởng được no cái bụng.
Ai ngờ vẫn cơ cầu,
Vợ chồng phải xa nhau.
Thôi thôi nằm nữa chi,
Xóm làng ta lúc ni
Không ở được nữa rồi!
Liệu thế nào dậy đi!
Bài vè hay về lòng yêu nước
Loại vè này được sáng tác nhằm ghi lại những sự kiện quan trọng của từng địa phương, ca ngợi các chiến công, tôn vinh những người anh hùng, đả kích kẻ thù xâm lược cũng như bọn bán nước. Từ đó làm nổi bật bản chất của tình hình, truyền tải thông điệp về lòng yêu nước.
Vè Trương Định
Nam Kỳ là đất Lạp Man
Công người khai phá, mở mang lâu ngày.
Kể từ Tây tới đến nay,
Giang sơn gần thuộc về tay người ngoài.
Trương Công hùng lược thao tài
Quyết đem binh mã thử vài trận chơi.
Nghĩa thanh sấm động nhức trời,
Biết bao hào kiệt đồng lời thệ minh.
Bỗng đâu nghe tiếng triều đình
Giảng hoà sai sứ hành trình từ kinh.
Chỉ trên dụ phải thoái binh,
Trương Công lúc ấy giật mình thở than.
Rằng: “Xưa lục tỉnh giang san,
Tiên vương thổ địa há bàn nhường ai?”.
Triều đình sợ việc chẳng hài,
Phải đem ông đến Pháp đài nộp ngay.
Nam triều thế sự lạ thay!
Trận đánh Sơn Trà
(Bài vè tả trận đánh ở Sơn Trà (Đà Nẵng) năm 1858 khi thực dân Pháp xâm lược nước ta)
Thần công nó bắn
Đạn nổ đùng đùng
Nó bắn lung tung
Vào thành Đà trấn
Cho quân xâm lấn
Đổ bộ Sơn Trà
Lệnh ông đại tá
Đánh giáp lá cà
Tây chết bề bộn
Năm tàu lồng lộn
Nó nã thần công
Đạn nổ đùng đùng
Bốn phương tám hướng
Lính triều hoảng vía
Bỏ chạy tứ tung
Quan tướng đều lo
Mấy dãy quán kho
Cũng đều bỏ chạy.
Vè Nghĩa quân Bang Ninh - Hạ Thành Hà Tĩnh
(Tức Lê Ninh, được Hàm Nghi phong làm bang biện quân vụ; ông quê ở Trung Lễ, xã Cổ Ngu, thuộc Đức Thọ (Hà Tĩnh). Ông đã đem quân phối hợp với quân Phan Đình Phùng, đánh Pháp nhiều trận)
Cầu Ngu, Trung Lễ xưa nay
Thay trời đổi nước, có anh tài nổi lên
Chộ Mường về Cẩm Xuyên,
Ba tháng rày ngơ ngẩn.
Dân ta cầu khẩn,
Được năm bảy mùa liền.
Văn thân đà nổi lên,
Tây nhập thành tỉnh Nghệ.
Đầu mưu xu kế,
Ai ai cũng như ai,
Nam Bắc với Đông Đoài,
Văn thân đồng một bụng.
Nhà giàu năm bảy thúng.
Bá hộ đôi ba nghìn.
Kéo vô số tiền quyên
Lên đại đồn khởi mộ.
Giừ ông Bang xuất của;
Mộ hai vệ Trường, Yên;
Đặt một ông tác tiền,
Khen anh tài võ nghệ,
Rành anh tài võ nghệ.
Kéo về làng Trung Lễ,
Phu ứng chực địa đầu.
Thợ rèn, rèn được bấy nhiêu lâu.
Chưa đủ đồ khí giới,
Ai ai mà nỏ (chả) hãi,
Lên trường tập mà coi.
Thiếu lính thời đòi.
Thiếu lương thời lĩnh.
Phu ở ngoài bất tỉnh,
Chỉ tính được một nghìn.
Đường núi Dẻ kéo lên,
Đường Mỹ Xuyên một nửa
Đóng Đồng Hòa một nửa
Đầu canh năm sắp sửa,
Cơm nước đã vừa rồi.
Nghe trống giục ba hồi,
Quan truyền cho các đội;
Quan lại truyền các đội.
Mỹ Xuyên có đội Thoại,
Hữu Chế có đội Xuyên;
Cứ đường đất kéo lên.
Lên đội Chanh, đội Trạch.
………
Kéo qua xã Hằng Nga,
Kéo vô huyện Thạch Hà
Qua tổng Trung, tổng Đậu.
Trong ba ngày cho thấu,
Tờ dán khắp cửa thành.
Các hàng quán xung quanh,
Đều chưa ai biết cả,
Chưa người nào biết cả.
Nghe ba tiếng: “Dạ… há”,
Quân rã khắp đường quan,
Ông Bố đã khôn ngoan,
Đề binh lên chưa kịp,
Lên thượng thành chưa kịp.
Từ phía thành bọc nhíp,
Quân đã lọt vào trong.
Quán lính đã một lòng.
Cờ Cần Vương đỏ chói…
Nghe ba tiếng ống gọi,
Quan lớn xuống tận nơi,
Ba ngựa với hai voi,
Ngọn cờ bay phấp phới;
Bay ngọn cờ phấp phới.
Quan truyền cho các đội,
Cứ yên ấm ba ngày,
Ai chơi nhởi mặc ai,
Lương tiền ta cứ lĩnh.
Đặt một quan giữ tỉnh,
Để hai chữ bình yên.
Còn quan lớn trẩy lên,
Lên nhà vua bái mạng.
Lên sơn phòng bái mạng.
Vàng vua thưởng mười lạng.
Rồi quan trở về nhà,
Phá Thọ Ninh cho ra,
Quân Thọ Ninh cũng chịu.
Quân Thọ Tường cũng chịu.
Quân quan Đình thì yếu,
Phó bảng Hạnh bất tề
Đạo mới viện Tây về,
Quân quan Bang mới chạy;
Quân quan Đình mới chạy.
Từ Yên Hồ sắp lại,
Từ Thịnh Quả, Trường Xuân.
Họ đốt mãi đến Tuần
Khắp chợ Cầu, kẻ Hạ.
Quân Thọ Ninh sang phá,
Của lấy hết, nhà thiêu,
Vơ vét hết đã nhiều.
Vô thôn Trung mới phá,
Lên đại đồn mới phá.
Gẫm như trong thiên hạ,
Thiếu chi kẻ anh tài,
Không phải mình ta đây,
Xin dân đừng thán oán.
Dân sự đừng thán oán.
Chợ không người buôn bán,
Giừ đại lộ không thông hành.
Từ Hà Nội về Kinh,
Coi chiều như buồn bã;
Mọi nơi đều buồn bã.
Ra giêng hai thong thả,
Quan lớn ngồi hiệp nghị binh quy.
Có phá được đạo đi.
Quan thanh nhàn mát mẻ,
Dân thanh nhàn mát mẻ.
Tây kéo lên tỉnh Nghệ,
Tây bỏ tỉnh Tây lui;
Nước Nam ta thái hồi.
Vua ta lên bình trị,
Quan anh hùng bình trị.
Đường quan sơn thiên lý,
Đường biển rộng núi cao.
Dân rày ước mai ao,
Được bốn mùa kế tiếp….
……
(Nguồn: Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Vũ Ngọc Phạn, Nhà Xuất bản Văn học)
Vè Sai đạo
(Sai đạo là đạo binh có khâm sai cầm đầu. Bài này xuất hiện ở Quảng Nam năm 1886, vào lúc nổi lên cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Hiệu đứng đầu. Triều đình nhà Nguyễn phái khâm sai Nguyễn Thân hợp với quân Pháp đi đánh dẹp.)
Lẳng lặng mà nghe:
Cái vè “sai đạo”,
Danh vi trấp bảo
Vụ dĩ an dân,
Khâm sai đại thần,
Kéo vô Đà Nẵng.
Tướng, quân đều sẵn:
Tán lý, Tán tương,
Chú Bang, chú Thương.
Chú Đề, chú Lãnh.
Quân ròng tướng mạnh,
Các đạo các cơ,
Đánh trống mở cờ,
Kéo vô tỉnh cũ.
Phân quân vừa đủ,
Phái vãng thượng du.
Thác Cả, Rập Cu.
Đôi đường tấn tiễu.
Nhất thời phương liệu,
Văn miếu đồn binh:
Ai thấy cũng kinh,
Gọi khâm sai giỏi.
Kêu dân tới hỏi,
Rằng: “Nghĩa đã tan!
Hạnh hoặc tương an.
Thi vị thạnh sự”
Sau lên Phong Thử,
Quân nghĩa tứ vi;
May chẳng hề chi,
Nhờ ba thằng Pháp.
Thâu quân yển giáp.
Trở lại La Thành.
Từ ấy thất kinh.
Vừa làm vừa sợ
Tướng chi tướng dở.
Vì luyện quân tình,
Chẳng có Tây binh,
E không khỏi chết.
Chước chi cũng hết.
Năm ngoái năm ni
Làm chẳng ra chi.
Lại thêm ăn bậy.
Lũ quân đi lấy,
Các tướng về chia.
Thôi đã tràn đìa,
Cái chi cũng xách.
Cái quần đã rách,
Cái áo đã xơ.
Cũng giành mà quơ,
Huống chi cái khá.
Kẻ thì đào mả,
Kẻ lại phá nhà,
Những chó, những gà,
Những heo, những vịt.
Bắt mà ăn thịt,
Lại bán lấy tiền.
Đem về Thừa Thiên,
Ngãi, Bình, Quảng Trị,
Thậm vi khả bỉ.
Quân lệnh khâm sai!
Thiên hạ ai ai,
Chớ tin mà mắc.
Thác từ đánh giặc,
Hai ngã bình dân.
Thiên địa quỷ thần,
Nguyên kỳ chiếu giám.
Nói càng thêm thảm,
Chẳng biết làm sao,
Hiệu lệnh dường nào,
Quan gia đến thế?
Hà mưu hà kế?
Hà lự hà tư?
Viện những đồ hư
Để đi ăn giật!
Bợm nào đắc lực,
Tấn trật thăng quan,
Lớn bé một đoàn.
Vô sở bất chí,
Nhân dân dị nghị,
Hồ lạc chi tùng
Sự thế nhật cùng.
Quảng Nam ở lỗ.
Trời làm chi khổ,
Thất đảo bát điên,
Nói lắm cũng phiền,
Như tư như dĩ.
(Nguồn: Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Vũ Ngọc Phạn, Nhà Xuất bản Văn học)
Vè đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân. Không chỉ mang tính giải trí, các bài vè dân gian còn phản ánh lịch sử, lên án thói hư tật xấu và chứa đựng những giá trị sâu sắc về đạo đức.
Đừng quên cập nhật liên tục những bài viết mới nhất, hấp dẫn nhất tại voh.com.vn - Sống đẹp.