- Đôi nét về nhà thơ Nguyễn Khuyến
- Chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến
- Thơ trào phúng Nguyễn Khuyến
- Tự trào
- Chừa rượu
- Tiến sĩ giấy
- Anh giả điếc
- Lấy Tây
- Cua chơi trăng
- Thầy đồ ve gái góa
- Ông phỗng đá
- Hội Tây
- Hoài cổ
- Vịnh sư
- Hỏi thăm quan tuần mất cướp
- Châu chấu đá vôi
- Mừng đốc học Hà Nam
- Vịnh tiến sĩ giấy bài 1 (Vịnh ông tiến sĩ giấy)
- Vịnh tiến sĩ giấy bài 2 (Ông nghè tháng tám)
- Bỡn cô tiểu ngủ ngày
- Thầy đồ mắc lừa gái
- Một số bài thơ Nguyễn Khuyến nổi bật khác
Nguyễn Khuyến được xem là một trong những cây đại thụ trào phúng của văn học Việt Nam. Với ngôn từ sắc bén nhưng vẫn tinh tế, nhẹ nhàng, ông đã vạch trần những thói hư tật xấu của mọi hạng người trong xã hội… Hãy cùng VOH đến với những dòng thơ Nguyễn Khuyến trong bài viết dưới dây.
Đôi nét về nhà thơ Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến tên chính là Nguyễn Văn Thắng, hiệu Quế Sơn, sinh năm 1835 tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Tuy nhiên, ông lớn lên và sống tại quê nội ở làng Vị Hạ (tục gọi là làng Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Thuở nhỏ, Nguyễn Khuyến nổi tiếng thông minh và chăm học. 12 tuổi, ông đã thông thạo kinh sử. Đến năm 15 tuổi ông đỗ kỳ thi phúc khảo hàng tỉnh. Thế nhưng, chưa kịp thi Hương thì cha ông mất nên đành bỏ lỡ. Gia cảnh từ đó cũng dần sa sút.
Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ giải nguyên kỳ thi Hương tại trường Hà Nội, nhưng lại hỏng kỳ thi Hội. Đếm năm 1871, ông đỗ đầu cả thi Hội lẫn thi Đình nên được gọi là Tam Nguyên.
Đỗ xong, ông được bổ làm Đốc học Thanh Hóa, rồi đến chức án sát Quảng Bình, bố Chánh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Khi thấy quan lại bấy giờ thối nát, tranh giành lẫn nhau, Nguyễn Khuyến đã xin được từ quan nhưng vua Tự Đức không cho, cử ông làm Tuần Phủ rồi lại triệu về kinh là Sử quán Toản tu.
Năm 1882 khi quân Pháp uy hiếp Hà Nội, Nguyễn Khuyến được phái làm thượng biện để lo việc ngoại giao và được thăng chức làm Tổng Đốc Sơn Tây, Hưng Hóa và Tuyên Quang. Tuy nhiên, khi thấy người Pháp ngày càng lấn áp triều đình, ông đã chán nản thời cuộc nhiễu nhương và quyết tâm xin được cáo quan để trốn đời.
Sau khi về quê ở ẩn, Nguyễn Khuyến từng được người Pháp mời mọc, cưỡng ép tham chính trở lại. Khi thấy ông luôn khước từ, người Pháp đã sai người giám sát ông gắt gao.
Để không bị nghi ngờ, Nguyễn Khuyến nhận lời dạy học riêng tại nhà họ Hoàng và cho con là Nguyễn Hoan ra làm quan. Khi được thực dân và tay sai để yên, ông liền rút hẳn về thôn quê, tiêu dao với cảnh sắc thiên nhiên và nếp sống bình dị ở đây.
Cuộc đời Nguyễn Khuyến sau đó êm ả trôi đến năm 1910 thì ông qua đời tại làng Yên Đổ, thọ 76 tuổi.
Sự nghiệp thi ca của Nguyễn Khuyến để lại cho đời rất nhiều thể loại. Về Hán văn có Quế Sơn thị văn tập. Về chữ Nôm thì ông sáng tác rất nhiều bài thuộc các thể thơ luật, hát nói, lục bát, văn tế…
Phần lớn sáng tác của ông xoay những 3 nội dung chính là: Lời bộc bạch tâm sự của mình; Viết về con người, cảnh vật và cuộc sống quê hương; Chế giễu đả kích những kẻ tham lam, ích kỷ, tùy thời, cơ hội lúc bấy giờ.
Chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến
Chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến được coi là tiêu biểu cho hồn thơ Nôm Nguyễn Khuyến. Ba bài thơ Thu Điếu, Thu Ẩm, Thu Vịnh lại được xem như những bức tranh thơ bất hủ, đặc tả cảnh mùa thu làng quê Đồng bằng Bắc Bộ. Cùng đến với 3 bài thơ nổi tiếng ấy ngay sau đây.
Bài thơ Thu Điếu (Câu cá mùa mùa thu) của Nguyễn Khuyến
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Bài thơ Thu Ẩm (Uống rượu mùa thu)
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy.
Độ năm ba chén đã say nhè.
Bài thơ Thu Vịnh (Vịnh mùa thu) của Nguyễn Khuyến
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Thơ trào phúng Nguyễn Khuyến
Không chỉ có Tú Xương, Nguyễn Khuyến cũng là một trong những nhà thơ thích đem nghệ thuật trào phúng vào trong thơ của mình. Tuy vậy, đọc thơ ông người ta không thấy sự biểu lộ tình cảm nào quá ồ ạt, suồng sã, bởi khi châm biếm, đùa cợt ông vẫn giữ cái cười kín đáo, tế nhị và sâu xa.
Tự trào
Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại ngán cho mình nhỉ,
Mà cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
Chừa rượu
Những lúc say sưa cũng muốn chừa,
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.
Hay ưa nên nỗi không chừa được.
Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.
Tiến sĩ giấy
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi!
Anh giả điếc
Trong thiên hạ có anh giả điếc,
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng ai ngờ sáng tai họ, điếc tai cày,
Lối điếc ấy sau này em muốn học.
Toạ trung đàm tiếu, nhan như mộc,
Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu.
Khi vườn sau, khi ao trước, khi điếu thuốc, khi miếng trầu,
khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu,
Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc.
Điếc như thế ai không muốn điếc?
Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!
Hỏi anh, anh cứ ậm à!
Lấy Tây
Cái gái đời này, gái mới ngoan,
Quyết lòng ẩu chiến với Tây quan.
Ba vuông phất phới cờ bay dọc,
Một bức tung hoành váy xắn ngang.
Trời đất khéo thương chàng bạch quỷ,
Giang san riêng sướng ả hồng nhan.
Nghĩ càng thêm ngán trai thời loạn,
Cái gái đời này, gái mới ngoan!
Cua chơi trăng
Vằng vặc đêm thu ánh xế chừng,
Ham thanh, cua mới muốn chơi trăng.
Nghiêng mai lách ngược qua dòng biếc,
Ghé yếm bò ngang nhởn bóng hằng.
Cung quế chờn vờn hương mới bén,
Vườn đào thoang thoảng gió như nâng.
Một mai cá nước cua vui phận,
Trăng muốn tìm cua, dễ được chăng?
Thầy đồ ve gái góa
Ở goá thế gian này mấy mụ,
Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy.
Yêu con cũng muốn cho thầy dạy,
Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.
Ông phỗng đá
Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Mà trơ như đá vững như đồng!
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó,
Non nước đầy vơi có biết không?
Hội Tây
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
Hoài cổ
Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười,
Sự đời đến thế, thế thời thôi!
Rừng xanh núi đỏ hơn nghìn dặm,
Nước độc ma thiêng mấy vạn người.
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,
Phá tung phên giậu hạ di rồi.
Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ,
Mây trắng về đâu nước chảy xuôi.
Vịnh sư
Đầu trọc lốc bình vôi,
Nhảy tót lên chùa ngồi.
Y a kinh một bộ,
Lóc cóc mõ ba hồi.
Cơm chẳng cần cá thịt,
Ăn rặt oản, chuối, xôi.
Không biết câu tình dục,
Đành chịu tiếng bồ côi.
Hỏi thăm quan tuần mất cướp
Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông,
Nó lại lôi ông đến giữa đồng.
Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ!
Thân già da cóc, có đau không?
Bây giờ mới khẽ sầy da trán,
Ngày trước đi đâu mất mảy lông.
Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa.
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông!
Châu chấu đá vôi
Châu chấu làm sao dám đá voi,
Đứng xem ta cũng nực cơn cười.
Loe xoe sấn lại dương đôi vế,
Ngứa ngáy không hề động nửa đuôi.
Hay giở cuộc này ba chén rượu,
Được thua chuyện ấy một trò chơi.
Nghĩ ra ta cũng thương mình nhỉ,
Theo đít còn hơn một lũ ruồi!
Mừng đốc học Hà Nam
Ông làm đốc học bấy lâu nay,
Gần đó mà tôi vẫn chửa hay.
Tóc bạc răng long chừng đã cụ,
Khăn thâm áo thụng cũng ra thầy.
Học trò kẻ chợ trầu dăm miếng,
Khảo khoá ngày xưa quyển một chầy.
Bổng lộc như ông không mấy nhỉ?
Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây.
Vịnh tiến sĩ giấy bài 1 (Vịnh ông tiến sĩ giấy)
Khéo chú hoa man khéo vẽ trò,
Bỡn ông mà lại dứ thằng cu.
Mày râu vẻ mặt vang trong nước,
Giấy má nhà bay đáng mấy xu?
Bán tiếng, mua danh, thây lũ trẻ,
Bảng vàng, bia đá, vẫn nghìn thu.
Hỏi ai muốn ước cho con cháu,
Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu.
Vịnh tiến sĩ giấy bài 2 (Ông nghè tháng tám)
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời!
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi!
Bỡn cô tiểu ngủ ngày
Ôm tiu, gối mõ ngáy khò khò,
Gió lọt phòng thiền mát mẻ cô.
Then cửa từ bi cài lỏng cánh,
Nén hương tế độ đốt đầy lò.
Cá khe lắng kệ đầu hi hóp,
Chim núi nghe kinh cổ gật gù.
Nhắn bảo chúng sinh như muốn độ,
Sẽ quỳ, sẽ niệm, sẽ nam mô.
Thầy đồ mắc lừa gái
Nắng mưa lần lữa tháng ngày,
Cô tiêu đã lắm thầy vay cũng nhiều.
Yêu người, người lại chẳng yêu,
Chiều hoa, hoa lại chẳng chiều mới căm.
Có đêm thanh vắng bóng hằng,
Thầy đương dở chén cô băng vội nằm,
Trời mưa dở trống canh năm,
Vớ đôi áo mỏng với dăm áo dày.
Thầy đương dở giấc nào hay,
Tỉnh ra cô đã bỏ thầy cô đi...
Một số bài thơ Nguyễn Khuyến nổi bật khác
Vì sống trong thời cuộc loạn lạc nên thơ Nguyễn Khuyến đậm đà tính chất dân tộc thể hiện sâu sắc phong cách đồng quê, tâm hồn thôn dã. Dưới đây là một số bài thơ nổi bật được nhiều người yêu thích khi nhắc về thơ Nguyễn Khuyến.
Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư
Dĩ hĩ Dương đại niên,
Vân thụ tâm huyền huyền.
Hồi ức đăng khoa hậu,
Dữ quân thần tịch liên.
Tương kính thả tương ái,
Tao phùng như túc duyên.
Hữu thời xuất kinh lộ,
Không san văn lạc tuyền.
Hữu thời thượng cao các,
Ca nhi minh tố huyền.
Hữu thời đối quân ẩm,
Đại bạch phù bát duyên.
Hữu thời dữ luận văn,
Đông bích la giản biên.
Ách vận phùng dương cửu,
Đấu thăng phi tham thiên.
Dư lão công diệc lão,
Giải tổ quy điền viên.
Vãng lai bất sổ đắc,
Nhất ngộ tam niên tiền.
Chấp thủ vấn suy kiện,
Ngữ ngôn thù vị khiên.
Công niên thiểu dư tuế,
Dư bệnh nghi công tiên.
Hốt văn công phó chí,
Kinh khởi hoàng hoàng nhiên.
Dư khởi bất yếm thế,
Nhi công tranh thượng tiên.
Hữu tửu vi thuỳ mãi,
Bất mãi phi vô tiền.
Hữu thi vi thuỳ tả,
Bất tả vi vô tiên.
Trần Phồn tháp bất hạ,
Bá Nha cầm diệc nhiên.
Công ký khí dư khứ,
Dư diệc bất công liên.
Lão nhân khốc vô lệ,
Hà tất cưỡng nhi liên.
Bạn đến chơi nhà
Đã bấy lâu nay bác tới nhà.
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.
Thu dạ châm thanh
Canh thâm sương trọng Án cừu khinh,
Tứ cố hàn châm chẩm bạn oanh.
Đảo nguyệt cao đê xâm giác hưởng,
Tuỳ phong đoạn tục bán trùng thanh.
Kinh hồi thú phụ Tương Thành mộng,
Hoán khởi chinh phu nguỵ khuyết tình.
Nhất chủng u sầu tiêu vị đắc,
Viễn sơn hà xứ hựu chung minh.
Cuốc kêu cảm hứng
Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
Chợ Đồng
Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét.
Nếm rượu, tường đền được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.
Trên đây là tuyển tập một số bài thơ Nguyễn Khuyến hay và ý nghĩa. Hãy cùng theo dõi chuyên Mục Sống đẹp của voh.com.vn để cập nhật thêm nhiều bài viết bổ ích, thú vị khác nhé!