Tiêu điểm: Nhân Humanity
Chờ...

Thơ Chế Lan Viên - những tác phẩm đi cùng năm tháng

(VOH) - Thơ Chế Lan Viên mang nét rất riêng biệt. Mỗi bài thơ là một khúc hát huyền bí, đậm tính thời sự, đa diện và sâu sắc về cuộc sống.

Thơ Chế Lan Viên không còn quá xa lạ với những tâm hồn yêu thơ. Đây là một trong những cây bút tiêu biểu cho phong trào Thơ mới. Thơ ông rất đa dạng và độc đáo, từ kỳ dị, bí ẩn cho đến tươi vui, hào hùng. Nhà thơ đã để lại cho đời nhiều tác phẩm xuất sắc, góp phần cho sự thịnh vượng của nền văn học Việt Nam.

1. Đôi nét về Chế Lan Viên

1.1 Cuộc đời và sự nghiệp

Chế Lan Viên (1920 - 1989) tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị. Ông được biết đến với nhiều bút danh như Thạch Hãn, Chàng Văn, Oah (tức Hoan). Năm 17 tuổi, Chế Lan Viên cho ra đời tác phẩm Điêu Tàn, ghi tên mình vào hàng ngũ nhà thơ tiêu biểu lúc bấy giờ.

Năm 1939, Chế Lan Viên ra Hà Nội học, vào Sài Gòn làm báo. Sau đó, nhà thơ lại về Thanh Hóa dạy học. Đến năm 1942, ông xuất bản tập văn Vàng sao. Năm 1945, ông cùng với Đào Duy Anh, Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư tham gia kháng chiến. Trong giai đoạn này, Chế Lan Viên viết báo và làm biên tập viên cho các báo Quyết thắng, Cứu quốc, Kháng chiến

Năm 1954, Chế Lan Viên làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 - 1958, nhà thơ công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương. Nhiều năm liền, ông là thành viên trong ban lãnh đạo Hội nhà văn Việt Nam. Không những thế, cây bút tài hoa này còn là ủy viên Ban văn hóa - giáo dục, đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa IV, V, VI.

Sau 1975, Chế Lan Viên sinh sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1996, ông được nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Chế Lan Viên cho ra đời nhiều tập thơ như Điêu Tàn (1937), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967), Hoa trước lăng Người (1976),... Ngoài ra, ông còn viết các tác phẩm văn xuôi Vàng sao (1942), Thăm Trung Quốc (1963), Bác về quê ta (1972),... hay tiểu luận phê bình Nói chuyện thơ văn (1960), Phê bình văn học (1962), Nghĩ cạnh dòng thơ (1981),...

tho-che-lan-vien-voh-0

1.2 Phong cách thơ Chế Lan Viên

Thơ Chế Lan Viên là dòng suối ngọt lành “tắm mát” cho tâm hồn, giúp chúng ta cảm nhận được tình yêu sâu nặng dành cho quê hương, đất nước và con người. Đồng thời, những vần thơ ấy cũng không quên phản ánh những khó khăn, thử thách và nỗi đau mà đất nước, con người Việt Nam phải đối mặt trong thời điểm ấy.

Có thể nói, con đường thơ của Chế Lan Viên trải qua nhiều biến động theo từng chặng đường. Trước Cách mạng Tháng Tám, thơ ông mang khuynh hướng thần bí, kinh dị, đậm phong cách “trường thơ loạn”. Trong thời kỳ 1945 - 1975, các tác phẩm của ông có sự thay đổi rõ rệt. Đề tài chủ yếu là viết về đất nước và cuộc sống nhân dân, có chất chính luận, thời sự. Sau 1975, thơ Chế Lan Viên là những trăn trở, băn khoăn cái “tôi” vĩnh hằng của đời sống.

Phong cách thơ Chế Lan Viên vô cùng độc đáo, giàu tính suy tưởng, triết lý. Ông là một trong những cây bút tiêu biểu, "nhân sư" của thi đàn Việt Nam.

Hãy cùng lắng đọng, nhâm nhi tách trà, ngâm nga vài câu thơ chất chứa một chút “tình và đời” của Chế Lan Viên!

Xem thêm:
Tuyển tập 25 bài thơ của Tố Hữu sống mãi trong lòng người đọc
Thơ Xuân Quỳnh: gợi nhớ, gợi thương khiến người đọc vấn vương mãi không thôi!

2. Thơ Chế Lan Viên trước 1945

Thơ Chế Lan Viên trước năm 1945 mang đậm phong cách bí ẩn, ma mị, có một chút gì đó Điêu tàn, thoát ly hiện thực. Đây có thể được xem là giai đoạn đáng chú ý của ông, mang đến cho người đọc cảm giác nỗi niềm hoài cổ về một thời vàng son, oai hùng của đất nước.

2.1 Ánh sáng

Cả trời đất đêm nay tràn ánh sáng

Bên Chiêm nương ta say uống nguồn mơ

Miệng đầy trăng khôn cất một lời thơ

Mắt đầy ánh sao sa khôn thể nhắm

Tai đầy tiếng ái ân lời say đắm

Cũng không nghe tiếng động của trần gian

Mũi đầy hương xa lạ xứ Hoa Trăng

Ngăn hơi thở. Trí thơ ngây đầy mộng

Cũng khôn gieo lấy một vài ý tưởng.

 

Có ai không trên tận đảo mây trôi?

Quăng xuống đây dải lụa, hỡi ai ơi!

Để mau đem hồn ta đi cõi khác!

 

Trời thăm thẳm! Lời vang không tiếng đáp!

2.2 Mơ trăng

Mây chắp lụa dài vây núi biếc

Sương xây mồ bạc dấu trăng vàng

Thuyền ai giỡn nước sông Ngân ấy

Mà để sao sa xuống cõi trần?

 

Ai đổi đầu lâu trong nấm mộ

Tiếng khua vang rạn khớp đầu ta?

Có ai rên rỉ ngoài thôn lạnh

Như tiếng xương người rên rỉ khô?

 

Mơ rồi! Mơ rồi! Ta mơ rồi!

Xạc xào chỉ có lá vàng rơi

Quanh mình bóng tối mênh mang cả

Thấp thoáng đôi hồi lửa đốm soi.

tho-che-lan-vien-voh-1

2.3 Chiều chiều

Trăng tắt lâu rồi

Mà sao cánh gió

Cành cao chưa rời?

- Mà sao thương nhớ

Vẫn còn trong tôi

Xa nhau lâu rồi.

 

Chiều xưa đã tắt

Chiều nay chuông chùa

Vẫn còn tiễn đưa

- Chiều nay tôi nhác

Một lời chiều xưa

Từ chiều xưa tắt...

 

Chừ trải phương nao

Những chiều năm ngoái

Những chiều chưa tới

Bây giờ đợi đâu?

- Hồn tôi lạc lối

Ở trong chiều nào?

Gần nhau một chiều

Xa nhau trọn kiếp

Mà lòng còn yêu

Mà còn ngỡ hẹn

Gặp nhau một chiều

- Trăm chiều lạnh lẽo

Nghìn chiều quạnh hiu...

2.4 Đường đi trăm lối

Có những con đường quanh co nổi giận

Quá lên cao chết đi theo núi rậm

Những con đường theo dõi một người qua

Để đến đây nhường cuộc trước thềm hoa

Đây một con đường và đây hương lúa

Của đồng thơm trên lòng đường trải lụa

Ôi, giờ đây giam cấm cả mùa xuân

Trong lẫm cao kín đáo đến trăm lần

Có những con đường vỡ ra từng khúc

Cả đường gãy dưới núi xe nặng nhọc

Đây ý của đường bóng mát cây tươi

Và lòng đường, đường muôn dặm xa khơi

Là một con đường, lòng tôi đau khổ

Im lặng xé mình theo muôn xe cộ

Đường nào đâu vào hẳn giữa lòng xe?

Xe nào đâu theo mãi lối đường đi?

2.5 Đợi người Chiêm nữ

Tối hôm nay chị Hằng nghiêm nghị quá

Dãy cây vàng đợi mộng, đứng im hơi

Không một mối trăng ngà rung muôn lá

Không một làn mây bạc vẩn chân trời.

 

Thành Đồ Bàn cũng thôi không nức nở

Trong sương mờ huyền ảo, lắng tai nghe

Từ một làng xa xôi bao tiếng mõ

Tan dần trong im lặng của đồng quê.

 

Bên cửa tháp ngóng trông người Chiêm Nữ

Ta vẩn vơ nhìn không khí bâng khuâng

Vài ngôi sao lẻ loi hồi hộp thở

Một đôi cành tơ liễu nhúng trong trăng!

 

Nàng không lại, và nàng không lại nữa!

Cả thân ta dần tan trong hơi thở

Ôi đêm nay, lòng hỡi, biết bao sầu!

Kìa trời cao, trên mãi chín tầng cao

Hồn ta bay trong một làn khói tỏa

Chẳng biết rồi lưu lạc đàn nơi nao?

2.6 Không đề

Chẳng bao lâu đêm tối lạnh chân thềm

Hoa nhân ảnh dần rơi trên tấm vách

Của sông núi xây sầu như bóng khách

Bóng người qua nhà vũ trụ hoang tàn

Chiếu chăn ta, đen tối đến ăn nằm

Nơi ngõ sống hoa cười bóng cợt

Chỉ còn gió - han dài - rên tiếng sót

Thổi hư không cho bể chết dâng thành

Bề mất màu ru sóng tắt âm thanh

Nên mây nước chữa tan vàng huyễn mộng

Gối nhan sắc vẫn tham rồng tiếc phụng

Mắt ảo huyền còn rỡn đóa hư không

Lạnh thây con, tay mẹ vẫn ru bồng!

Ta còn nắm nhành đan. Son nếp áo

Chút tên tuổi vẫn chói ngời diễm ảo

Bạn phù du, ta đứng với thiên nhiên

Sáng tươi vui lòng giữ vững hoa đèn.

tho-che-lan-vien-voh-2

2.7 Đêm xuân sầu

Trời xuân vắng. Cỏ cây rên xào xạc

Bóng đêm luôn hoảng hốt mãi không thôi

Gió xuân lạnh, ngàn sâu thôi ca hát

Trăng xuân sầu, sao héo, cũng thôi cười.

 

Trên đồi lạnh, tháp Chàm sao ủ rũ

Hay hận xưa muôn thuở vẫn chưa nguôi?

Hay lãnh đạm, Hời không về tháp cũ

Hay xuân sang. Chiêm nữ chẳng vui cười?

 

Bên tháp vắng, còn người thi sĩ hỡi

Sao không lên tiếng hát đi, người ơi?

Mà buồn bã, âu sầu trong đêm tối

Người vẫn nằm há miệng đớp sao rơi?

2.8 Đọc sách

Ta nằm đọc sách trong vườn chuối

Chim khách trên nhành hót líu lo

Gió bay nhộn nhịp không ra lối

Hoa tàn luống cuống chẳng nên thơ.

 

Trời xanh ới hỡi! Xanh khôn nói

Hồn tôi muốn hiểu chẳng cùng cho!

Có cánh chim gì bay chới với

Chết rồi! Nó lạc giữa Hư Vô!

 

Kìa kìa nắng nở hoa muôn sắc

Trên những tàu tiêu rợn ý trinh

Kìa kìa, nắng bọc muôn hình xác

Những nét thơ tràng cổ sách xinh.

2.9 Nắng mai

Bóng đêm tan trên đồng xanh vô tận

Nắng trời bay phấp phới bọc muôn cây

Chốn cao xa, trên trán giời không giới hạn

Làn tóc mây đùa rỡn bảo nhau bay.

 

Cả vũ trụ biến dần ra ánh sáng

Nước sông Linh hòa lẫn nắng trời tươi

Nắng trời tươi, tưng bừng bay tản mạn

Gợi lòng ta bao dấu vết xa xôi.

 

Ta vẫn thấy hồn ta buồn ủ rũ

Và cõi lòng dày đặc bóng đêm mờ

Vì, bạn ơi, trong bao tia nắng rỡ

Tia nào đâu rơi tự nước Chàm ta?

tho-che-lan-vien-voh-3

2.10 Xuân 

Tôi có chờ đâu, có đợi đâu

Ðem chi xuân lại gợi thêm sầu?

- Với tôi, tất cả như vô nghĩa

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!

 

Ai đâu trở lại mùa thu trước

Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?

Với của hoa tươi, muôn cánh rã

Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!

 

Ai biết hồn tôi say mộng ảo

Ý thu góp lại cản tình xuân?

Có một người nghèo không biết Tết

Mang lì chiếc áo độ thu tàn!

 

Có đứa trẻ thơ không biết khóc

Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran!

Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ!

Một cánh chim thu lạc cuối ngàn.

Xem thêm:
100 câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ về quê hương, đất nước, con người Việt Nam
Tổng hợp 47 câu ca dao tục ngữ thành ngữ về lòng yêu đất nước - tình cảm cao quý được trao truyền bao thế hệ
8 bài thơ 4 chữ về quê hương - Một làng quê Việt Nam yên bình, mộc mạc

3. Thơ Chế Lan Viên từ 1945 - 1975

Thơ Chế Lan Viên từ 1945 - 1975 có sự chuyển biến rõ rệt. Giai đoạn này, ngòi bút của ông có khuynh hướng đậm chất chính luận, sử thi hào hùng. Ông đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong văn học Việt Nam. Với tinh thần cách mạng đầy bản lĩnh và trách nhiệm, nhà thơ đã viết nên những bài thơ cảm xúc về cuộc sống và tình yêu đất nước. Đặc biệt, bài thơ Con cò của Chế Lan Viên được độc giả đánh giá cao.

3.1 Con cò

I

Con còn bế trên tay

Con chưa biết con cò

Nhưng trong lời mẹ hát

Có cánh cò đang bay:

“Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò Cổng Phủ

Con cò Đồng Đăng…”

Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn

Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ

“Con cò ăn đêm

Con cò xa tổ

Cò gặp cành mềm

Cò sợ xáo măng…”

Ngủ yên, ngủ yên, cò ơi, chớ sợ

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân

Con chưa biết con cò con vạc

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.

 

II

Ngủ yên, ngủ yên, ngủ yên

Cho cò trắng đến làm quen

Cò đứng ở quanh nôi

Rồi cò vào trong tổ

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ

Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi

Mai khôn lớn, con theo cò đi học

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân

Lớn lên, lớn lên, lớn lên...

Con làm gì?

Con làm thi sĩ

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn.

 

III

Dù ở gần con

Dù ở xa con

Lên rừng xuống bể

Cò sẽ tìm con

Cò mãi yêu con

Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con

À ơi!

Một con cò thôi

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi

Ngủ đi, ngủ đi!

Cho cánh cò, cánh vạc

Cho cả sắc trời

Đến hát

Quanh nôi.

tho-che-lan-vien-voh-4

3.2 Tiếng hát con tàu

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hoá những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.

 

Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?

Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội

Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi

Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng.

 

Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp

Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?

Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép

Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.

 

Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc

Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng

Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất

Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân.

 

Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa

Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường

Con đã đi nhưng con cần vượt nữa

Cho con về gặp lại mẹ yêu thương.

 

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.

 

Con nhớ anh con, người anh du kích

Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn

Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách

Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.

 

Con nhớ em con, thằng em liên lạc

Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ

Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc

Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư.

 

Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc

Năm con đau, mế thức một mùa dài

Con với mế không phải hòn máu cắt

Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.

 

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?

Khi ta ở, chi là nơi đất ở

Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!

 

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.

 

Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.

 

Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?

Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ

Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội

Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.

 

Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng

Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào

Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến

Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao.

 

Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ

Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ

Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa

Nay trở về, ta lấy lại vàng ta.

 

Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?

Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng

Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống

Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.

3.3 Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm

Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

- Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng… 

 

Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả

Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn!

Trái cây rơi vào áo người ngắm quả

Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn

Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ

Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn… 

 

Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời

Cửa vẫn đóng và Đời im ỉm khóa

“Những pho tượng chùa Tây Phương” không biết cách trả lời

Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ… 

Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi!

 

Có phải cha ông đến sớm chăng và cháu con thì lại muộn

Dẫu có bay giữa trăng sao cũng tiếc không được sống phút bây giờ

Buổi đất nước của Hùng Vương có Đảng

Mỗi người dân đều được thấy Bác Hồ

Thịt xương ta giặc phơi ngoài bãi bắn

Lại tái sinh từ Pắc Bó, Ba Tơ… 

 

Không ai có thể ngủ yên trong đời chật

Buổi thuỷ triều vẫy gọi những vầng trăng

Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt

Gỗ trăm cây đều muốn hoá nên trầm

Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt

Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng… 

 

Ôi! Trường Sơn vĩ đại của ta ơi!

Ta tựa vào Ngươi, kéo pháo lên đồi

Ta tựa vào Đảng ta, lên tiếng hát

Dưới chân ta, đến đầu hàng Đờ Cát

Rồng năm móng vua quan thành bụi đất

Mỗi trang thơ đều dội tiếng ta cười!

Đều lộng hương thơm những cánh đồng hợp tác

Chim cu gần, chim cu gáy xa xa… 

Ruộng đoàn tụ nên người thôi chia cắt

Đêm no ấm, giọng chèo khuya khoan nhặt

Lúa thêm mùa khi lúa chín về ta.

 

Rồi với đôi tay trắng từ Đinh, Lý, Trần, Lê... Đảng làm nên công nghiệp

Điện trời ta là sóng nước sông Hồng

An Dương Vương hãy dậy cùng ta xây sắt thép

Loa thành này có đẹp mắt Người chăng?

 

Ong bay nhà khu tỉnh uỷ Hưng Yên

Mật đồng bằng mùa nhãn ngọt môi em

Cây xanh ngắt đất bạc màu Vĩnh Phúc… 

Ôi! Cái thuở lòng ta yêu Tổ quốc

Hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên?

 

Ôi, cái buổi sinh thành và tái tạo

Khi thiếu súng và khi thì thiếu gạo

Nhưng phù sa này đẻ ra những Cà Mau thịnh vượng mai sau

Dẫu là Chúa cũng sinh từ ruột máu

Ta đẻ ra Đời, sao khỏi những cơn đau.

 

Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!

Ôi! Thương thay những thế kỷ vắng anh hùng

Những đất nước thiếu người cầm thanh gươm nghìn cân ra trận… 

Nhà thơ sinh đồng thời với mưa phùn và những buổi hoàng hôn

Cả xứ sở trắng một màu mây trắng!

Ai biết mây trên trời buồn hơn hay thơ mặt đất buồn hơn?

Chọn thời mà sống chăng? Anh sẽ chọn năm nào đấy nhỉ?

Cho tôi sinh ra buổi Đảng dựng xây đời

Mắt được thấy dòng sông ra gặp bể

Ta với mẻ thép gang đầu là đứa trẻ sinh đôi

Nguyễn Văn Trỗi ra đi còn dạy chúng ta cười… 

Cho tôi sinh giữa những ngày diệt Mỹ

Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy

Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi.

tho-che-lan-vien-voh-5

3.4 Con lên Quế Võ

Giặc ném đê Thái Bình

Gửi con lên Quế Võ

Vừa mới bốn tuổi đầu

Đã phải lo đê vỡ.

 

Ngủ cùng con một đêm

Mai mẹ về công tác

Trăm sự nhờ cơ quan

Có các cô, các bác.

 

Ôi con tôi thương sao

Ngủ còn ghì chặt mẹ!

Bom chúng nặng nghìn cân

Mà thịt con non thế!

 

Máy bay xoẹt mấy lần

Mẹ giật mình chẳng ngủ

Vội quá chưa đào hầm

Đất rắn đào lại khó.

 

Mẹ về thăm chẳng dễ

Đường đi lắm cầu phà

Thái Bình xa lắm mà

Con chơi ngoan con nhé...

3.5 Con tập nói

Ngày ngày con dậy sớm sao...

Bi bô trăm tiếng, tiếng đầu gọi cha

Ngỡ đời trở lại tuổi thơ

Mượn môi con gọi lòng cha mỗi ngày.

 

Tiếng “rơi” cùng với tiếng “cầm”

Tiếng “hoa” đẹp mắt, tiếng “chăn” ấm lòng

Cha dùng quen bốn mươi năm

Dạy con, như học lại lần đầu tiên

Ngỡ đời vừa đặt lại tên

Cỏ non theo mắt con nhìn lại xanh.

3.6 Cuối năm

Ngã ba trụi lá cây bàng

Cuối năm nghe rõ thời gian qua cành

Nghe chim ngày tháng bay nhanh

Năm đi như có đời mình theo đi

Xôn xao hoa trắng lại về

Thời gian lại gọi bên kia rặng đào

Lòng vui ta có thơ chào

Xuân đâu buộc ngựa bên rào đợi ta.

3.7 Nhớ Việt Bắc

Thôi nhớ hoa xong lại nhớ người

Chiến khu phương ấy trắng mây trời

Chửa về Tuyên Thái thăm tre trúc

Hãy đến sông Hồng ngóng nứa xuôi.

3.8 Vững lòng

Ra Thanh Nghệ Tĩnh

Nhớ Bình Trị Thiên

Núi cao xanh ngắt Ba Rền

Đi ngang đỉnh núi ngoảnh nhìn mà đau

Chém cha thằng Pháp mưu sâu

Đổ bao xương máu đồng bào xứ trong

Lúa tao bay cướp giữa đồng

Người tao bay trói bay còng dắt đi

Đốt tan xóm chợ làng quê

Sống đau chết khổ cũng vì tụi bay

Gian lao tính tháng tính ngày

Dân ta kháng chiến đã đầy tám năm

Tám năm cho chí trăm năm

Còn quân ăn cướp còn cầm gươm đao

Còn đắp ụ còn phá cầu

Còn chôn bom nổ còn đào đường quan

Căm thù đã sắt lá gan

Thì cho bay rụi bay tàn mới thôi...

Mặc cho kháng chiến lâu dài...

Dù trong gian khổ nhớ lời Cụ khuyên...

Đi qua đỉnh núi Ba Rền

Ngoảnh nhìn Quảng Trị, Thừa Thiên... vững lòng.

3.9 Ngủ yên đồng chí nhé

Gửi anh lại giữa rừng

Bốn bề núi dựng

Núi hiên ngang ngất trời vách đứng

Canh mồ cho anh.

 

Anh hãy ngủ ỵên

Chúng tôi về đồng nội

Đơn vị phủ anh quốc kỳ đỏ chói

Chi bộ ghi thêm dấu Đảng búa liềm.

 

Ngủ yên anh nhé

Rừng sâu “của” mình!

Tiếng nói “chân rừng và mặt bể”

Đất nước nơi nào không cha mẹ

Sống thác nơi nào không quang vinh

Bà mẹ đồng bằng có hỏi

“Ba, thằng Ba mô rồi?”

Sẽ kể: anh giờ hấp hối

Hai tay còn ghì bộc lôi

Nhớ lời anh dặn:

“Hy sinh đến cùng

Tất cả vì dân vì Đảng”

Thét to tên anh giữa trận

Thành lời xung phong.

 

Ngủ yên anh nhé

Chúng tôi khởi hành

Tin chắc đồng chí nhé

Giết hết chúng để trả thù cho anh.

tho-che-lan-vien-voh-6

3.10 Đưa con ra trận

Mẹ về trong xóm

Con đi công đồn

Theo chân ra tới đầu thôn

Rót thêm bát nước chân còn muốn theo

Xác xơ đất đỏ xóm nghèo

Khoai sắn chẳng thương con mấy hôm liền con ở

Nhà dột, phên thưa, đời mẹ khổ

Tắt nắng, lun ngày, còn mong chi nữa

Các con về mấy bữa

Đời mẹ già rạng rỡ thương yêu

Mẹ mẹ, con con chưa được mấy lam chiều

Chiều nay con ra trận

Lòng mẹ thương

Nhưng thôi tình chẳng bận

Đi đi, mẹ lắng tin chờ

Chao ôi! thù mấy năm thù

Tiếc đất chưa hoá lửa để thiêu tro trại đồn

Trời chưa đổ núi nhào non

Biển chưa dâng sóng mà chôn quân giặc cướp

Súng ống ở mô các con về nườm nượp

Ngàn ngàn lớp lớp

Nghĩ xung gan mấy năm cay đắng căm hờn

Thôi, vui chừ đời mẹ đang còn

Con đêm ni để nghe quân giặc chết

Giết hết, phá tan, bắn đi cho hết

Kìa con xem làng ni khòng còn một gốc mít, một cây chè

Xóm ni không còn một đứa trẻ khóc o oe

Không một tiếng gà kêu, chó sủa

Thì bọn giặc, cũng không còn một đứa...

Con cần chi nữa

Uống thêm bát nước

Cầm thêm củ gừng

Giữ lấy tấm khăn

Ra trận đêm sương mà buộc cổ

Trời đêm ni sao mà nhiều gió rứa?

Sao đêm ni răng mà lại tỏ?

Thôi con đi

Mẹ về

Đốt lửa

Chờ con

Nửa đêm súng nổ cho dòn

Mai tin con mạnh đồn tan mẹ mừng.

Xem thêm:
Phác họa vẽ đẹp chiến đấu của người lính Việt qua 20+ bài thơ mang khí thế hào hùng
24 bài thơ về kháng chiến anh hùng bất khuất

4. Thơ Chế Lan Viên sau 1975

Sau năm 1975, cây bút tài hoa của thi ca Việt Nam vẫn tiếp tục sáng tác với những tác phẩm đầy cảm hứng và sức sống, phản ánh chân thực tình hình xã hội mới trong giai đoạn đó. Các bài thơ Chế Lan Viên vẫn giữ được phong cách đặc trưng, có giá trị nghệ thuật cao, đậm chất nhân văn và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.  

4.1 Màu áo tím

Tiếng bom nổ. Cả phòng lặng phắc

Cốc nước hơi chao rồi thoắt lại đầy

Khối thuỷ tinh không hề rạn nứt

Lời thơ vút cao lên sau một thoáng cau mày.

 

Chị nhấn nhá từng nhịp lời thong thả

Đàn tranh đàn tỳ trắng muốt bàn tay

Pháo cao xạ bên ngoài đánh trả

Máy bay thù cút thẳng phía chân mây.

 

Áo chị màu hoa cúc dịu êm

Bỗng dưng sắc tím chói bừng lên

Màu hoa mùa áo rồi ta nhớ

Còn tiếng bom thù ta sẽ quên.

tho-che-lan-vien-voh-7

4.2 Chung một bóng đèn

Rồi anh cách xa em như hai thiên hà thiên thể cách trùng

Đo từ anh đến em dễ triệu năm ánh sáng

Tìm hương em phải qua vạn khoảng trời vô hạn

Đâu như một thuở một bóng đèn chung, một bóng hoa chung.

4.3 Phía ấy

Sáng ra thì em đi

Gió lạnh lùa theo xe

Gió chia làm hai nửa

Một nửa theo anh về.

 

Phía ấy trời vắng chim

Và thư em không lại

Chỉ có tiếng bom rền

Vắng người qua để hỏi.

 

Phía ấy xe hàng vắng

Hàng cây nối song song

Cây liền cây tít tắp

Giăng ngọn nhớ vô cùng

Mỗi ngày không một chuyến

Cho lòng ta đỡ mong.

 

Khi hai đứa hai trời

Hai phía đều phía ấy

Khi hai đầu ngoảnh lại

Vầng trăng nhớ chia đôi.

4.4 Các anh xưa

Ôn Như Hầu, con sông chảy hút phía siêu hình

Nguyễn Du, vết thương lòng ta phí máu

Yên Đổ, tiếng anh khóc, dẫu cười không thể giấu

Và Tú Xương cười gằn như mảnh vỡ thuỷ tinh.

 

Chúng tôi thắng nơi các Anh xưa bỏ cuộc

Nhưng thiếu các Anh là điều không thể được

Chính từ nỗi đau xưa mà ta mở cuộc hành trình.

 

Thời đại Hồ Chí Minh không quên rừng lau Hoàng Hoa Thám

Người lái máy cày nhớ người lên máy chém lúc bình minh.

tho-che-lan-vien-voh-8

4.5 Canh cá tràu

Canh cá tràu mẹ thường hay nấu khế

Khế trong vườn thêm một tý rau thơm

Ừ, thế đó mà một đời xa cách mẹ

Ba mươi năm trở lại nhà, nước mắt xuống mâm cơm!

4.6 Rét đầu mùa

Nguy nga dựng vòm mây trắng

Trang nghiêm cái rét đầu mùa

Đưa ta vào đền kỷ niệm

Nghe từng ngọn gió thu qua.

tho-che-lan-vien-voh-9

4.7 Bát canh chua

Bốc lửa máy bay thù mà suýt nữa ta thua

Quần với giặc suốt ngày, chưa hạt cơm nào vào bụng

Kìa Bụt hiện lên rồi giữa đất trời cháy bỏng

Dân bỏ đến tận chiến hào cho một bát canh chua.

4.8 Bến đò mẹ tiễn

Tiễn con ra bến đò

Bốn bề bom đạn giặc

Thuyền con đi xa khuất

Mẹ vẫn đứng trông chờ

Chín nghìn đêm đại bác

Chín nghìn ngày chia cắt

Ba mươi năm đợi chờ

Mẹ đã về nhà chưa?

 

Con nửa đời xa mẹ

Đi sông Ngô bể Sở

Ngoảnh lại bến làng xưa

Làng xóm hoá ra tro

Đất trời thành toạ độ

Con đò mẹ tiễn đưa

Đã cháy vèo trong lửa.

Sao mẹ còn tại chỗ

Sao mẹ còn nguyên đó

Đầu tóc bạc phơ phơ...

4.9 Nhớ tuổi thơ

Nhớ biển miền Trung tiếng sóng đùa

Nhớ nhà cha mẹ, cảnh trường xưa...

Nhớ chao ôi nhớ! Trời xanh thế!

Gà lại dồn thêm tiếng gáy trưa!

tho-che-lan-vien-voh-10

4.10 Lá bàng rơi

Năm hết đến nơi

Lá bầm quá nửa

Một đêm em rét dữ

Thì lá bàng anh rơi.

 

Lá bàng rơi đầy sân

Sáng phòng ta mở cửa

Cây trơ những đường gân

Thời gian đi qua đó.

 

Hết năm hết năm rồi

Những năm làm ra đời

Câu thơ đang viết dở

Mà lá bàng cứ rơi.

Xem thêm: 
Top những bài thơ hay về cuộc sống hạnh phúc giúp bạn vượt qua thời gian khó khăn
Tuyển tập thơ 2 câu về cuộc sống ai cũng nên đọc một lần
Tuyển chọn thơ ngắn hay về cuộc sống giúp lòng ‘nhẹ tênh’

5. Chùm thơ Chế Lan Viên về tình yêu

Tình yêu là một đề tài không bao giờ cũ. Qua các vần thơ, những cảm xúc sâu lắng, phức tạp của tình yêu đã được lột tả một cách trọn vẹn. Đặc biệt, thơ Chế Lan Viên về tình yêu lại càng thi vị, thấm nhuần những triết lý nhân sinh.

5.1 Những bài thơ 4 câu của thơ Chế Lan Viên về tình yêu

Thơ Chế Lan Viên về tình yêu không nồng nàn, rạo rực như Xuân Diệu, không ray rứt, đau thương như Hàn Mặc Tử mà nó nhẹ nhàng, sâu lắng. Đọc thơ ông, chúng ta cảm nhận được nỗi cô đơn, hiu quạnh trong tình yêu. 

Hãy lắng lòng mình lại, thả hồn theo từng vần thơ Chế Lan Viên để cùng chia sẻ, thấu hiểu những lời bộc bạch của nhà thơ.

1. Liễu cũng chờ em

Năm rét đi rồi liễu nhú tơ

Khắp cành lộc nhỏ sáng mau thưa

Tưởng ngày em lại buông cành rậm

Che khuất mình ta trong gió đùa.

tho-che-lan-vien-voh-11

2. Quả vải vào mùa

Mới gần đã vội chia xa

Không ăn quả vải vào mùa cùng anh

Trái hồng khuất lấp cành xanh…

Còn lưu quả chót trên cành chờ em.

3. Mây của hoa

Màu trắng là màu mây của em

Trắng trời anh lại nhớ em thêm

Em đi muôn dặm như về chậm

Chỉ lấy màu mây trắng nhắn tin.

4. Cây dẫn về em

Cây nối đầu cây… chạy tới em

Đếm hoài cây lại mọc cây thêm

Tình anh làm chiếc cây sau chót

Về tận quê em, đến tận thềm.

5. Nhớ

Sáng ra đã gặp em rồi

Còn đêm nay nữa sao dài bằng năm

Ước bay đến chỗ em nằm

Cùng chung đợi sáng, tay cầm trong tay.

6. Nhánh đào yêu

Đêm sắp tan rồi. Sương trĩu cây

Tình yêu, anh đỡ ở trên tay

Kìa nhánh đào in ngoài bực cửa

Sắp dậy cùng ta đón một ngày.

7. Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể

Cái rét đầu mùa anh rét xa em

Đêm dài lạnh, chăn chia làm hai nửa

Một đắp cho em ở vùng sóng bể

Một đắp cho mình ở phía không em.

8. Gió mùa đông bắc

Từ lúc em ra đi, hai lần gió mùa đông bắc thổi qua phòng

Lần trước lạnh vừa, lần sau lạnh gắt

Ở đất nước đánh giặc này, ta chỉ sợ gió mùa không sợ giặc

Chỉ sợ lòng mình, ai sợ gió mùa đông.

9. Hoa tháng ba

Tháng ba nở trắng hoa xoan

Sáng ra, mặt đất lan tràn mùi hương

Không em anh chẳng qua vườn

Sợ mùi hương… sợ mùi hương nhắc mình!

10. Lòng anh làm bến thu

Buổi sáng em xa chi

Cho chiều, mùa thu đến

Để lòng anh hóa bến

Cho thuyền em ra đi!

5.2 Những bài thơ Chế Lan Viết về tình yêu thấm đượm nỗi nhớ nhung

Tình yêu là một thứ gì đó khó hiểu, không thể lý giải. Nhưng qua những bài thơ Chế Lan Viên về tình yêu, chúng ta cảm nhận được gia vị của tình yêu. Thơ ông luôn chứa đựng những dòng suy nghĩ, trăn trở về tình yêu và tình người. Từ đó thấy rằng, nhà thơ đã viết về chủ đề này với một cách nhìn rất riêng, hiểu biết sâu sắc và đầy tình cảm. 

1. Nhớ mình

Qua đây ta lại nhớ mình

Gió trăng chẳng nói hết tình ta đau

Ngọn riêng gió thổi sầu lau

Mắt xa em có sáng màu nhớ nhung?

Thời gian chảy khuất bên lòng

Nhỏ to mạch gối đôi dòng xót thương.

tho-che-lan-vien-voh-12

2. Chùm nhỏ thơ yêu

Anh cách em như đất liền xa cách bể

Nửa đêm sâu nằm lắng sóng phương em

Em thân thuộc sao thành xa lạ thế

Sắp gặp em rồi sóng lại đẩy xa thêm.

 

Anh không ngủ. Phải vì em đang nhớ

Một trời sao rực cháy giữa đôi ta

Em nhắm mắt cho lòng anh lặng gió

Cho trời sao yên rụng một đêm hoa.

3. Hoàng hôn

Cây khẽ nói lên từng ý gió

Bóng gửi hồn thơm xuống rợp đường

Một chùa có lẽ xa xôi lắm

Trên những lòng tin rót suối chuông.

 

Hồn anh cũng đã bắt đầu đêm

Em hãy làm sương trút dịu mềm

Em hãy làm sao gieo sáng láng

Và ban thương nhớ, em làm em.

4. Chia

Em đi về phía ấy

Anh chia cho nỗi buồn

Chia cho cơn mưa nhỏ

Và nắng quái chiều hôm.

 

Một cái hôn ban sáng

Thành cơn mưa buổi chiều

Chia cho cơn mưa ấy

Ðể xa rồi em yêu.

 

Tia nắng ấm gần nhau

Xa nhau thành nắng quái

Chia làm gì nắng ấy

Ðể xa rồi em đau.

5. Tình ca ban mai

Em đi, như chiều đi

Gọi chim vườn bay hết

Em về tựa mai về

Rừng non xanh lộc biếc.

 

Em ở, trời trưa ở

Nắng sáng màu xanh tre

Tình em như sao khuya

Rải hạt vàng chi chít.

 

Sợ gì chim bay đi

Mang bóng chiều đi hết

Tình ta như lộc biếc

Gọi ban mai lại về.

 

Dù nắng trưa không ở

Ta vẫn còn sao khuya

Hạnh phúc trên đầu ta

Mọc sao vàng chi chít.

 

Mai, hoa em lại về…

tho-che-lan-vien-voh-13

6. Khúc ca chiều

Nắng hiền lành như một màu lụa cũ

Che gốc già, màn lá xanh buông rủ

Ngày chiều chiều, từng trút gió không hương

Lên cành cao khôn gợi dậy bụi đường

Ôi im lặng vẫn ôm nàng bất diệt

Chiều muôn thuở ngại ngùng cơn khóc biệt.

 

Hồn bao la mời mọc những tình say

Tình bao la quyến rũ mảnh hồn bay

Ôi, cho hồn đau thương vừa kết cánh

Ôi, cho trời hơi sương tăng giá lạnh

Giữa một chiều đôi chút gió không hương

Tình đôi ta như một chút bụi đường.

 

Lên bầu trời khôn đưa hồn đôi cánh

Cánh yêu đương trĩu nặng hồn mỏng mảnh

Và ngang chiều nghìn vạn hố cô liêu

Vô ảnh chờ hồn ngả lúc qua chiều

Ôi, im lặng của nắng chiều bất diệt

Ngỡ nghìn thuở vẫn chưa quen ly biệt

Để du dương lá khóc tiếng đôi cành

Sóng thời gian trôi chảy bến ngày xanh

Che gốc già, lá mấy màn buông rủ

Màn xuân khoác nắng vàng như lụa cũ

Hồn tôi nghe hờn khóc tự trong hồn

Một đám tang đưa hồn xuống huyệt buồn

Cành cây biếc nắng vàng vừa hết chiếu

Lòng tôi buồn như đám tang không triệu

Và hồn tôi là triệu đám tang nào

Mà phất phơ trong gió lá xôn xao?

7. Lặng im thì mới nghe

Lặng im

Lặng im thì mới nghe

Nhựa đong đầy các nhánh

Như hồn anh đầy em.

 

Lặng im

Lặng im thì mới tỏ

Nhánh đang hút từ sâu

Cái làm nên nụ đỏ.

 

Nghe, mùa xuân, nghe nghe

Lặng im mà mọi chỗ

Cái im giữa lòng ta.

 

Cũng là mùa xuân đó

Nếu lòng ta thiếu nó

Thì bao giờ ta nghe.

 

Cầm tay em vuốt ve

Hồn im cho tay nghe.

8. Trời đã lạnh rồi

Đổi gió mùa thu trời lạnh chăng em?

Màu xanh khuất mà mây cũng vắng

Hiu hắt lòng ta như thiếu nắng

Như căn nhà những tháng không em.

 

Roi trên cành chừng đã đi qua

Chen lá lục quả bàng vàng đã chín

Cỏ có dễ mềm hơn vì sương bén

Cúc bên đường nghiêng những giọt sương hoa.

 

Mùa thu chừng biết ta xa cách

Gió nửa đêm từng lúc gọi ta hoài

Nhắc anh biết miền xa em chẳng ngủ

Nhớ những ngày chăn mỏng đắp chung đôi.

9. Hồn trôi

Cô em ơi! Đằng xa cây tỏa bóng

Sao cô không ngồi đợi giấc mơ nồng?

Đến chi đây, cho thân cô rung động

Lớp hồn tôi êm rải khắp trời trong?

 

Đừng hát nữa! Tiếng cô trong trẻo quá

Khiến hồn tôi tê liệt khó bay cao

Này, im đi, nhìn xem, trong kẽ lá

Một mặt trời giả dạng một vì sao.

 

Ngoài xa xa, không, ngoài xa xa nữa

Thấy không cô, ánh nắng kéo hồn tôi?

Đến những chốn êm đềm như hơi thở

Nồng tươi như suối máu lúc ban mai.

 

Cô bảo: Hồn có hay không trở lại

Một khi trôi vào giữa giấc mơ cuồng?

– Có, cô ơi, hồn tôi rồi trở lại

Với lòng điên, ý chết, với tình thương.

tho-che-lan-vien-voh-14

10. Nhớ em nơi huyện nhỏ

Em đi về Kiến Xương

Mùa này mưa bão lắm

Phòng anh mờ hơi sương

Nhớ em như nhớ nắng.

 

Chiều nay ốm một mình

Vắng em ngồi bên cạnh

Ngọn gió lùa trêu anh

Cửa khép rồi vẫn đánh.

 

Đường xa trăm cây số

Ngỡ có em về đó

Đắp chăn dày cho anh

Và đứng nhìn anh ngủ.

 

Rồi lại đi Thái Bình…

Về Kiến Xương huyện nhỏ

Để lại trời bên cửa

Một màu xanh xanh xanh…

Xem thêm:
Chất chứa cảm xúc với những câu thơ tình yêu lãng mạn, ngọt ngào
Lắng đọng cảm xúc yêu thương, hạnh phúc, đau khổ, vấn vương qua 20 bài thơ ngắn về tình yêu chọn lọc
25 bài thơ tình bất hủ Việt Nam càng ngẫm càng thấy hay và sâu sắc

6. Những bài thơ của Chế Lan Viên về Bác Hồ

Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc đã dành cả cuộc đời mình cho nhân dân, đất nước. Ngoài Người đi tìm hình của nướcNgười thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi, nhà thơ Chế Lan Viên còn có một loạt tác phẩm viết về Bác.

6.1 Bác 

chân lý, Bác chẳng nói nhiều hơn chân lý

Cả nước nghe khi, im lặng, Bác cười

Chẳng phải lật sách nào ra tìm hiểu Bác

Bác sống trong ta, Bác ở giữa đời.

tho-che-lan-vien-voh-15

6.2 Bác vẫn còn đây

Chớ để quân thù nghe ta khóc, ơi em

Vết thương phải thành sẹo ngay đi mà đánh giặc

Đã đau rồi đừng khóc để đau thêm

Ta còn cả đời ta mà khóc Bác.

 

Bom Mỹ nguỵ tranh thủ phút này để tấn công ta

Pháo đài máu với những bom bảy tấn

Nguyện thương đau không thành tiếng khóc oà

Ta đau đấy nhưng giết thù, ta vẫn sẵn.

 

Ta có nước mắt thương đau nhưng ta còn có lửa thương đau

Giặc nếm cái chết lúc ta cười, cho chúng nếm thêm ngày ta khóc

Hễ đau nhiều thì dao chém lại càng sâu

Xuất kích lớn là giữa ngày tang tóc.

 

Hai mươi năm trôi phút giây nào Bác không nghĩ đến miền Nam?

Miền Nam “máu trong máu” và “thịt trong thịt” Bác.

6.3 Người đi tìm hình của nước

Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi

Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác

Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất

Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre.

 

Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ

Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương

Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở

Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương.

 

Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp

Giấc mơ con đè nát cuộc đời con

Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp

Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn.

 

Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dày

Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi

Lòng ta thành con rối

Cho cuộc đời giật dây.

 

Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê

Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ

Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ

Tìm đường đi cho dân tộc theo đi.

 

Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước”

Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người

Một góc quê hương nửa đời quen thuộc

Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi.

 

Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất

Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai

Thế đi đứng của toàn dân tộc

Một cách vin hoa cho hai mươi lăm triệu con người.

 

Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê

Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá

Và sương mù thành Luân Đôn, Người có nhớ

Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?

 

Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể

Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi

Những đất tự do, những trời nô lệ

Những con đường cách mạng đang tìm đi.

 

Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước

Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà

Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc

Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa.

 

Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?

Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?

Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ

Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?

 

Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?

Nụ cười sẽ ra sao? Ơi, độc lập!

Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc

Khi tự do về chói ở trên đầu.

 

Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông

Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt

Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc

Sao vàng bay theo liềm búa công nông.

 

Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc

Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin

Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp

Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin.

 

Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc

“Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”

Hình của Đảng lồng trong hình của Nước

Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười.

 

Bác thấy: dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt

Ruộng theo trâu về lại với người cày

Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, bể bạc

Không còn người bỏ xác bên đường ray.

 

Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát

Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân

Những kẻ quê mùa đã thành trí thức

Tăm tối cần lao nay hóa những anh hùng.

 

Nước Việt Nam nghìn năm Đinh Lý Trần Lê

Thành nước Việt nhân dân trong mát suối

Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói

Những đời thường cũng có bóng hoa che.

 

Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc...

Tuyết Mát-xcơ-va sáng ấy lạnh trăm lần

Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt

Lênin mất rồi. Nhưng Bác chẳng dừng chân.

 

Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt

Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi

Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất

Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai.

tho-che-lan-vien-voh-16

6.4 Đừng quên

Hỡi ai đi lên phía trước chớ quên sau lưng mình cái hang Pắc Bó

Đi tận cùng năm tháng không quên

Đi khuất lấp vẫn còn nhớ mãi

Đi muôn xa còn quay lại ngoái nhìn.

 

Qua Điện Biên, Ấp Bắc đừng quên

Vượt sông Hồng, sông Cửu không quên

Đong mùa vàng năm tấn, nào quên

Gặt vạn ngày thắng Mỹ, không quên.

 

Cả nước mắt, hang này là độc lập

Thay non sông đón Bác buổi ban đầu

Rừng hiền hậu suối khe chất phác

Lịch sử lấy nơi này làm đất chôn rau.

 

Dù muôn trùng còn cách mũi Cà Mau

Một tấc đất đã là Tổ quốc

Nay có trong tay trời Nam bể Bắc

Dám đâu quên hang nhỏ thuở ban đầu.

6.5 Hang mở nước

Ai đi lên phía trước

Chớ quên sau lưng mình

Cái cửa hồng bình minh

Chốn hang sâu mổ nước.

 

Nay núi sông hiển hách, nhìn đây

Cầm trang thơ rộng khổ nhìn đây

Lên đài cao nhân loại nhìn đây

Say vua Hùng chim Lạc nhìn đây.

 

Dân tộc rét chưa che Người đủ ấm

Hang đá này Bác đắp chiếc chăn sui

Khớp xương buốt vì hơi rêu lạnh thấm

Giò rừng đừng thổi nữa, gió rừng ơi.

 

“Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Bắt con ốc khe, chặt nõn chuối ngàn

Đây bát cơm ngô qua ngày bệnh yếu

Bác chia cùng dân tộc giữa lầm than.

 

Lạnh cánh chim đêm nó gọi thù thì

Bác ngủ đi nào, không Bác mệt

Thức đến sáng trời chưa hết việc

Kìa gà rừng đã gáy te te.

 

Những đêm ấy Bác thức cùng ngọn lửa

Thảo từng trang sử lớn cho đời

Tượng Mác trầm ngâm trong hình thạch nhũ

Dõi từng dòng từng chữ qua vai.

 

Sử Đảng thân yêu, sử cả loài người

Sử Tổ quốc trong hồn thơ lục bát

Bia Tự Đức, đã một thời mất nước

Lót đường in dòng sử ngày mai.

6.6 Mắt Bác trên cao

Trên non cao đã sáng ngời đôi mắt Bác

Không phải mắt Người khi ngắm một vầng trăng hay đọc một câu thơ

Không phải hồ thu hay là gương ngọc

Để khóc cười những số phận riêng ta...

 

Mà mắt lịch sử giương giữa trời bão táp

Mắt từng ngắm trăm dân tộc quốc gia đi những thế cờ

Những thế non sông. Nay định đoạt

Bước đường trường cách mạng sẽ xông pha.

 

Mắt thấy rụng các đế quốc sỏ sừng, các triều vua vạn đại

Nhân dân xô trong sức cuộn băng hà,

Thấy Hồng Lĩnh, Trường Sơn vươn vai Phù Đổng lại

Dòng Thương bi ca rồi sẽ hùng ca.

 

Có phải nhìn bằng mắt đâu, Bác nhìn với trái tim mình

Vô hạn thương yêu, vô hạn cảm tình

Trái tim ấy nghìn năm còn đập mãi

Đâu đời cần nhân ái lại hồi sinh.

 

Vạn xác máy bay thù hôm nay Người cũng nhìn thấy trước

Mắt mở ra không khép lại bao giờ

Dẫu ta bay đến thiên thể nào chói mắt

Thì cũng trong ánh sáng đường bay của chính Bác Hồ cho.

6.7 Ngoảnh về Pắc Bó

Nay ta hồi sinh cho cây chò đại thụ ngàn năm

Nay voi xa về uống lại Bạch Đằng

Nay xẻ vạn ngọn núi che trời làm bước tiến

Chỗ ngất trời là chỗ sẽ hành quân.

 

Nay múa sạp, xòe hoa với những gót hồng,

Mùa vui sao năm lúa chín thơm đồng

Hạt lúa mới gửi Người đi tuyến lửa

Có câu chèo điệu hát nằm trong.

 

Nay thế giới bình tâm lắng phương đây một tiếng đàn bầu

Biếc trời Việt Nam chung thuỷ một màu

Hồn ta đấy, bốn nghìn năm thế đấy,

Rót vào lòng, càng lắng lại càng sâu.

 

Nay... Nay... Nay... Hãy ngoảnh mặt về non cao Pắc Bó

Nghe Lênin giọng suối đang cười

Lắng tiếng suối Bác lại ngồi viết sử

Chương mới: Ngày mai. Dòng mới: Ngày mai.

tho-che-lan-vien-voh-17

6.8 Lộc của đời

Bạc phơ râu tóc của Người như một tiên ông

Người sinh ra là để ở một khu rừng

Cái xứ thiên nhiên không tên, thời gian không tuổi

Câu cá bên khe, làm thơ bên suối

Làm những bài thơ mở đầu bằng sắc núi

Xanh xanh.

Chính vì ta mà Bác phải lao vào giữa cuộc đấu tranh

Tám mươi năm chẳng nghĩ

Đi giữa xích xiềng đạn bom ầm ĩ

Giữa lý sự chua ngoa, cãi vã tục tằn

Lễ lạt, tiệc tùng và những diễn văn.

 

Bác đâu thích huân chương. Chỉ thích ngực trần

Áo mở cúc cho gió hè thổi mát

Mặc màu vải, màu mây đạm bạc

Để thoát cái, có thể lẫn vào thiên nhiên một cách bất thần

Nhớ kháng chiến trên ngàn cao Việt Bắc

Thấy cái yên tĩnh trầm tư, ta hiểu Bác

Tâm hồn Người ư, là yên tĩnh những khu rừng.

 

Ôi, những ngày chủ tịch phủ xanh um

Lộc non về, như trận thắng mùa xuân

Lộc chớm nở làm ta rưng nước mắt

Ta hiểu ra rồi. Người trồng cây cho Tổ quốc

Là muốn lộc của đời chia đến mỗi người dân.

6.9 Ném thừng

Bác ra thăm Ngọc Vừng

Mặc áo quần thủy thủ

Đầu đội mũ hải quân

Giải dài bay trong gió.

 

Bể vỗ sóng muôn trùng

Chào người quen biết cũ

Đàn hải âu lượn vòng

Quanh chòm râu trắng xóa.

 

Chủ tịch của một nước

Xa lâu về thăm “nhà”

Ra đi khá đột ngột

Biết lấy chi làm quà...

 

Dạy lũ cháu ném thừng

Chút nghề xưa của Bác

Liệu thử có quên chăng

Tự ngày xa sông nước.

 

Thừng Bác ném ra xa

Lượn đường dây đẹp mắt

Và khi cuộn thừng về

Ôi vòng tay bao quát.

 

Trời xanh xanh bao la

Bể bể ngời sóng bạc

Ngỡ cánh tay Bác vừa

Tóm gọn bầy đế quốc.

6.10 Thấy từ lúc ấy

Địa Trung Hải xanh ngời

Bác lên boong lặng ngắm

Uy nghi trước bể trời

Bỗng mắt Người rực sàng.

 

Hàng trăm chiến hạm Pháp

Chìm ngổn ngang bể khơi

Cái suy tàn đế quốc

Người vừa chợt thấy rồi.

 

Cảnh ấy theo Bác mãi

Trên hàng vạn dặm đường

Khi tàu qua Hồng hải

Lúc vào Ấn độ dương.

 

Về Hạ Long lặng sóng

Bác ước nhìn bể ta

Đo trước mồ chôn giặc

Vào một ngày không xa.

 

Trước bể trời lộng lẫy

Dim đôi mắt Bác cười

Nhìn trăm tàu giặc cháy

Trong trận thắng ngày mai.

tho-che-lan-vien-voh-18

6.11 Trong lăng và ở bên ngoài

Linh cữu chói ngời như đau thương như ánh sáng

Dân tộc mang theo bên mình vượt bể thời gian

Bể cách mạng lắm đá ngầm, hỗn sóng

Có Bác bên mình, ta vững tâm.

 

Thiên thu im lìm, thiên thu tịch lặng

Bác nằm bên trong, ta đi ở bên ngoài,

Đôi tay Bác nghi yên trên bụng

Xếp đấy mà, đâu phải buông xuôi.

 

Từ đây mỗi lần cách mạng đi lên

Mỗi khi khai sáng kỷ nguyên, trở mình thời đại

Khi lòng ta có việc chưa yên

Khi dân tộc có điều muốn hỏi

Ta quay nhìn về đây, chờ đợi

Chói ngời ở đấy, một niềm tin.

 

Bác mất rồi. Cái chết uổng công

Từ lâu Người hoá tinh thần Người hoá non sông

Là chiến thắng huy hoàng trời Tổ quốc

Người hoá dựng xây Người hoá vun trồng.

 

Có cái bất tử của người duy tâm

Hào quang loá mắt

Lại có cái bất tử của người duy vật

Nhập hạt lúa sổ thành mình vào mặt đất

Lên trong mùa vĩ đại của nhân dân.

 

Bác vĩnh cửu muôn đời không thể mất

Người trong lăng và Người ở ngoài lăng.

6.12 Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi

Những năm ấy tôi đi giữa lòng Hà Nội

Không hay trong xà lim anh Hoàng Văn Thụ đang nằm

Không biết anh Trần Đăng Ninh bị cùm tay mỗi tối

Không hay trên biên thùy Bác đã dừng chân.

 

Tôi đến Nha Trang ngắm trời bể đẹp

Có hay đâu hang Pắc Bó gió lùa

Giường lãnh tụ là hai hàng đá ghép

Mảnh áo chàm Bác mặc quá đơn sơ.

 

Đất nước sắp đổi thay rồi mà tôi chẳng biết

Người thay đổi đời ta đã về kia, ta vẫn không hay

Tôi vẫn khép phòng văn hì hục viết

Nắng trôi đi oan uổng biết bao ngày

 

Chớ bao giờ quên nỗi chua cay của một thời thơ ấy

Tổ quốc trong lòng ta mà có cũng như không

Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy

Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng!

 

Ta làm con nai lạc giữa rừng thu

Làm hổ sa cơ giận vườn bách thảo

Làm bóng ma Hời sờ soạng đêm mơ

Làm tất cả! Chỉ trừ không đổ máu!

 

Nở trắng hoa kim anh trên biên giới, Bác về

Xa nước ba mươi năm một câu Kiều, Người vẫn nhớ

Mái tóc Bác đã phai màu quá nửa

Lòng son ngời như buổi mới ra đi.

 

Người đánh thức hồn dân tộc đã về kia. Ta nghe bừng tỉnh dậy

Câu quan họ, xẩm xoan xưa vứt ngã ba đường

Điệu lục bát và màu nâu nơi ruộng rẫy

Bức tranh làng Hồ và cô Tố nữ dáng quê hương.

 

Người đánh thức tương lai đã về kia, Bác hôn lên hòn đất

Nghe trong tay trở dậy những thành đồng

Nghe thay đổi cả vóc hình Tổ quốc

Chừng Điện Biên rực lửa đã nằm trong.

 

Tôi ở đâu? Đi đâu? Tôi đã làm gì?

Đời thấp thoáng sau những trang sách Phật

Đất nước đau dưới gót bầy ngựa Nhật

Lạc giữa sao trời, tôi vẫn còn mê… 

 

Chưa có gì dính líu giữa thơ tôi và truyền đơn Bác viết

Tôi không biết khi Bác đau phải ăn một nắm lá rừng

Trong nước mắt thơ tôi, tôi chưa ngờ chất thép

Chưa thấy trong máu mình sắp cuộn máu nhân dân.

 

Ôi giữa lòng ta, Bác đến tự hồi nào?

Bác vĩ đại mà chẳng làm ai kinh ngạc

Một buổi sáng, nhìn lòng ta, ta thấy Bác

Nước mắt ràn, ta cảm hết ơn sâu.

 

Ấy là khi ta có thể nhảy vào đồn mà không sợ lửa

Ăn một miếng khoai bùi ta cảm thấy là ngon

Khi riêng tây, ta thấy mình xấu hổ

Khi nhìn đời, mỗi lá mỗi tơ non.

 

Khi uống ngụm nước trong, lưỡi ta không còn đắng chất thị thành

Đời tươi mát như ao sen mùa hạ

Anh em bốn bên mà ta ở giữa

Có được trái cây thơ, ta biết quý cả mùa lành.

 

Khi ta muốn thơ ta thành hầm chông giết giặc

Thành một nhành hoa mát mắt cho đời

Khi mỗi bước đi lên của lòng ta đều thấm tình giai cấp

Ta biết trong đời ta Bác đã đến rồi.

Với tài hoa và tâm hồn nhạy cảm, Chế Lan Viên đã để lại cho thế hệ sau nhiều tác phẩm đậm chất nhân văn và triết lý. Những bài thơ của ông chứa đựng nhiều thông điệp ý nghĩa về đất nước, gia đình, tình yêu và cuộc sống. Các tác phẩm ấy còn là niềm tự hào và tài sản văn hóa vô giá của đất nước. Thơ Chế Lan Viên vẫn mãi còn lắng đọng khôn nguôi…

Sưu tầm - Nguồn ảnh: Canva

Bình luận